Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Giải Thích Khác Nhau Về Vô Ngã

15/12/201015:25(Xem: 14186)
Những Giải Thích Khác Nhau Về Vô Ngã

TỔNG QUAN
VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

NhữngGiải Thích Khác Nhau Về Vô Ngã

Từ quan điểm triết lý, tiêuchuẩn cho việc phân biệt một trường phái Phật giáo là nó có chấp nhận bốn pháp ấnhay không bao gồm: Tất cả các hiệntượng cấu hợp là vô thường từ bản tính [chưhành vô thường]; các hiện tượng nhiễm ô là có bản tínhcủa khổ đau; tất cả các hiệntượng đều là Không và vô ngã[chư pháp vô ngã]; riêng niết-bàn là an tĩnh [niết-bàn tịch tĩnh].

Bất cứ hệ thống nào chấp nhậnnhững pháp ấn này một cách triết lý là trường phái tư tưởng Phật giáo. Trong cáctrường phái tư tưởng Đại thừa, vô ngã được giải thích một cách thậm thâm hơn, ởmột cấp độ sâu sắc hơn.

Bây giờ, hãy đề tôi giải thíchsự khác biệt giữa vô ngã như được giải thích trong lần chuyển pháp luân thứ haivà lần thứ nhất.

Chúng ta hãy kiểm tra kinh nghiệm của chính chúng ta,làm thế nào chúng ta liên hệ đến mọi vật. Thí dụ, khi tôi dùng xâu chuỗi này, ởđây, tôi cảm nhận nó là của tôi và tôi có sự dính mắc đến nó. Nếu quý vị thẩmtra sự dính mắc này quý vị cảm thấysự sở hữu riêng của mình, quý vị thấycó những cấp độ khác nhau về dính mắc. Người cảmgiác rằng có một cá nhân tự viên mãn như một thực thể riêng biệt độc lập vớithân thể và tâm thức mình, cá nhân đó cảm thấy rằng xâu chuỗi này là ‘củatôi’.

Qua thiền quán, quý vị có thể nhận thức sự vắng mặt của mộtcon người tự viên mãn như thế, tồn tạitrong sự cô lập khỏi thân và tâm củachính chúng ta, chúng ta có thể giảm thiểu chấp thủ mạnh mẽ mà quý vị cảm nhận các sở hữu của mình.Nhưng quý vị cũng có thể cảm thấyrằng vẫn còn có một số cấp độ vi tế của sự dính mắc. Mặc dù quý vị không thể cảm thấy sự dính mắc chủquan từ phía mình trong sự liênhệ đến cá nhân này, do bởi sự hiệnhữu xinh đẹp của xâu chuỗi, màu sắc đẹp đẻcủa nó và v.v…, quý vị cảm thấy mộtcấp độ nào đấy của sự dính mắc đến nó rằng một thực thể khách quan nào đấy tồntại ngoài kia. Do thế, trong lần chuyển pháp luân thứ hai, đức Phật đã dạy rằngvô ngã không chỉ giới hạn trong con người[nhân vô ngã], mà điều [vô ngã] đó cònđược áp dụng cho tất cả mọi hiện tượng [pháp vô ngã]. Khi chúng ta nhận ra điềunày, chúng ta có thể vượt thắng tất cả mọi hình thức của dính mắc và vọng tưởng.

Như Nguyệt Xứng[1]nói trong Nhập Trung Quán Luận ThíchcủaLong Thọ, vô ngã đã được giảithích trong những trường phái thấp của giáo thuyết, điều ấy hạn chế sự giảithích của họ về vô ngã chỉ trong con người, đấy không là một dạng đầy đủ của vô ngã. Ngaycả nếu quý vị thựcchứng tính Không, quý vịsẽ vẫn có những cấp độ vi tế của bám víu và chấp thủ đến những đối tượng bên ngoài, giống như những sởhữu của chúng ta và v.v…

Mặc dù khái niệm vô ngã làphổ biến trong tất cả mọi trườngphái tư tưởng Phật giáo, có những sự trình bày khác nhau. Rằng các trường pháicao hơn thì thậm thâm hơn khi so sánh với tưtưởng của những trường phái thấp hơn. Một lý do là mặc dù quý vị có thể nhận ra nhân vô ngã, như được diễn tả bởi các trườngphái thấp hơn, trong nội dung về một con người không là một thực thể độclập hay hiện hữu thật sự, quý vị có thể vẫn bám víu vào một nhận thức sai lầm nào đấy về ngã, nắmbắt cá nhân này như một sự tồntại tự tính, độc lập hay chân thật.

Khi nhận thức về nhân vô ngã tăng trưởng trở nên vi tế, quý vị nhận ra rằng con người thiếu vắng bấtcứ hình thức độc lập bản chất hay tồn tạitự tính nào. Rồi thì không có cách nào quý vịcó thể nắm bắt được một cá nhân tự viên mãn.Do thế, trình bày về vô ngã, trong các trường phái cao hơn là sâu sắc hơn vàthâm diệu hơn các trường phái thấp hơn.

Phương cách mà các trườngphái cao giải thích vô ngã không chỉ mạnh mẽ hơn trong việc hóa giải nhận thứcsai lầm về sự hiện hữu chân thật của con người và hiện tượng, mà còn không có mâuthuẩn với thực tại quy ước thông thường của cácpháp. Các hiện tượng thật tồn tại trên một căn bản quy ước, và sự thực chứng tínhKhông không ảnh hưởng đến điều này.

Các trình bày của đức Phật vềvô ngã nên được nhìn theo thứ tự như là sựcung ứng nền tảng cho quan điểmPhật giáo về duyên khởi. Khi Phật tử nói về duyên khởi, họ làm thế trong dạngthức của các hiện tượng phiền não đã gây ra khổđau, các hậu quả của chúng làđau khổ. Điều này được giải thích trong nộidung của thập nhị nhân duyên, mà chúng bao gồm những nhân tố đượchoàn thành trong một vòng luân hồi. Do thế, duyên khởi là gốc rể củaquan điểm Phật giáo.

Nếu chúng ta không thấu hiểuvô ngã qua nội dung của duyên khởi,chúng ta sẽ không thấu hiểu vô ngã một cách hoàn toàn. Những bản năng [căn cơ]tinh thần của con người là khác biệt. Đối với một số người, khi được giải thíchrằng tất cả mọi pháp là thiếu vắng sự tồn tạitự tính, thì [nghĩ rằng] có thểdường như không có gì tồn tại cả. Một hiểu biết nhưthế là rất nguy hiểm và tai hại, bởi vì nó có thể làm cho quý vị rơi vào trong cực đoan hư vô chủnghĩa. Do vậy, đức Phật dạy vô ngã dànhcho những cá nhân nào có bản năng tinh thần như thế. Với các hành giả có căn cơ cao hơn, ngài dạy vô ngã trên mộtcấp độ vi tế hơn. Tuy thế, bất chấp nhận thức về tính Không vi tếcó thể là như thế nào, nó không tổn hại niềm tin vững vàng của họ về sự tồn tại quy ước thế gian của các hiệntượng.

Do vậy, sự thông hiểu của quý vị về tính Không phải làm hoàn thiện cho sự thấu hiểu của chúng tavề duyên khởi, và sự thấu hiểu về tính Không ấy phải xác nhận một lần nữa xahơn lên tín tâm của quý vị vào luật nhân quả.

Nếu quý vị phân tích sự trình bày của các trường pháicao hơn từ những quan điểm của những trường phái thấp hơn, chúng ta thấy khôngcó sự mâu thuẩn hay trái ngược về luận lý trong chúng. Trái lại, nếu chúng ta xem xétsự trình bày của những trường phái thấp hơn từ quan điểm của những trường pháicao hơn, chúng ta sẽ thấy nhiều trái ngược về lý luận.

[1]Nguyệt Xứng (candrakīrti), tk. 6/7,được xem là Luận sư quan trọng nhất trong tông Trung Quán sau Long Thọ. Sư quê ởNam Ấn, xuất gia từ lúc nhỏ tuổi. Sau, sư trở thành viện trưởng của Nalanda[Nālandā Mahāvihāra] và viết nhiều bài luận chú giải về các tác phẩm của LongThụ. Các tác phẩm quan trọng của Sư là MinhCú Luận(Prasannapadā), Nhập TrungQuán Luận(Madhyamakāvatāra).

"Nguyệt Xứng".<http://vi.wikipedia.org/wiki/Nguy%E1%BB%87t_X%E1%BB%A9ng>. Truy cập29/08/2010.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/10/2024(Xem: 1574)
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra. Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được. Cụ thể là hàng chục năm qua, Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực kêu gọi, bằng các nghị quyết, các quốc gia cố gắng thực hiện các biện pháp giảm khí thải nhà kính, với các chính sách cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, gia tăng sản lượng xe chạy bằng điện năng, v.v… Dù kết quả chưa đạt được mức yêu cầu, nhưng cũng đã gây được ý thức và thể hiện quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc giải quyết thảm họa của khí thải nhà kính.
04/06/2024(Xem: 4130)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
30/04/2024(Xem: 3630)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
07/02/2024(Xem: 7568)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
19/12/2023(Xem: 9415)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 16938)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
13/12/2023(Xem: 15003)
Đức Phật của Chúng Ta (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
03/05/2023(Xem: 11441)
Khi Phật giáo (PG) du nhập vào Trung Hoa (TH) lần đầu tiên từ Ấn-độ và Trung Á thì những TH theo PG có khuynh hướng coi tôn giáo này là một phần hay một phái của Đạo Giáo Hoàng Lão, một hình thức Đạo Giáo bắt nguồn từ kinh sách và pháp thực hành được coi là của Hoàng Đế và Lão Tử. Những người khác chấp nhận ít hơn tôn giáo “ngoại lai” xâm nhập từ các xứ Tây Phương “man rợ” này PG là xa lạ và là một sự thách thức nguy hiểm cho trật tự xã hội và đạo đức TH, Trong mấy thế kỷ, hai thái độ này tạo thành cái nôi mà ở trong đó sự hiểu biết PG của người TH thành kính, trong khi các nhà
21/04/2023(Xem: 12321)
Thượng Tọa Thích Trí Siêu từ Pháp Quốc sẽ giảng pháp tại Úc Châu vào tháng 4 năm 2023 -- Thượng Tọa Thích Trí Siêu sinh năm 1962 tại Sài Gòn. Theo cha mẹ tỵ nạn qua Pháp năm 1975. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ cụ túc giới với Hòa Thượng Thích Huyền-Vi. Tuy xuất thân từ Đại Thừa, nhưng Thầy đã không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
20/04/2023(Xem: 14092)
Học đạo quý vô tâm Làm, nghĩ, nói không lầm Sáng trong và lặng lẽ Giản dị mới uyên thâm
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]