Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất

15/12/201015:22(Xem: 13439)
Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất

TỔNG QUAN

VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

ChuyểnPháp Luân Lần Thứ Nhất

 

Lần giảng dạy đầu tiên nàyđược biết như đợt lần chuyển pháp luân thứ nhất, Ngài đã thuyết về căn bản củaTứ Diệu Đế. Như hầu hết chúng ta có thể biết, bốn chân lý cao quý là chân lý vềkhổ đau [Khổ Đế], chân lý về nguyên nhân của nó [Tập Đế], chân lý về sự chấm dứt[Diệt Đế], và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau [Đạo Đế].

Khi Ngài dạy về Tứ Diệu Đế,theo những kinh điển tìm thấy qua các phiên bản tiếng Tây Tạng, Ngài dạy chúngtrong phạm vi của ba nhân tố: bản chất của những chân lý này, các chức năng củachúng và hiệu quả của chúng.

Tứ Diệu Đế thật sự rất thậmthâm vì toàn thể giáo thuyết Phật giáo có thể thể hiện trong chúng. Những gìchúng ta tìm thấy hạnh phúc và hạnh phúc là tác động của một nguyên nhân và nhữnggì chúng ta không muốn là khổ đau và khổ đau cũng có nguyên nhân của chính nó.

Trong quan điểm về sự quantrọng của bốn chân lý cao quý, tôi thường nhận xét rằng cả khái niệm của Phậtgiáo về duyên khởi lẫn giới hạnh Phật giáo về việc không tổn hại nhấn mạnh về đạolý bất bạo động. Lý do đơn giản cho điều này là sự khổ đau ấy mang đến những điềukhông mong muốn qua nguyên nhân của nó, mà điều ấy một cách căn bản là vô minhcủa chính chúng ta và tâm thức không thuần hóa của chúng ta. Nếu muốn xa lánhkhổ đau, chúng ta phải kiểm soát chính mình khỏi những hành vi tiêu cực là nhữngđiều sẽ cho sinh khởi khổ đau. Và bởi vì khổ đau liên hệ đến những nguyên nhâncủa nó, khái niệm duyên sinh phát khởi. Những hậu quả tùy thuộc trên nhữngnguyên nhân và nếu chúng ta không muốn những hậu quả này, chúng ta phải làm chấmdứt những nguyên nhân của nó.

Vì thế, trong Tứ Diệu Đế,chúng ta thấy hai hệ thống nhân và duyên: khổ đau là sự tác động và cội nguồn củanó là nguyên nhân. Trong cùng cách như thế, chấm dứt hay diệt tận là an bình vàđạo pháp đưa đến nó là nguyên nhân của sự an bình ấy.

Hạnh phúc mà chúng ta tìm cầucó thể được đạt được bằng việc tiến hành rèn luyện và chuyển hóa trong tâm thứccủa chúng ta bằng sự tịnh hóa tâm thức chúng ta. Sự tịnh hóa tâm thức chúng talà có thể khi chúng ta tiêu trừ vô minh si ám, vốn là gốc rể của tất cả các cảmxúc phiền não, và qua đó, chúng ta có thể đạt đến thể trạng diệt tận mà đấy làsự an hòa và hạnh phúc chân thật. Sự diệt tận đó chỉ có thể đạt đến khi chúngta có khả năng thực chứng được bản tính của mọi hiện tượng[1],thâm nhập tính bản nhiên của thực tại, và để làm điều này, sự rèn luyện về trí tríhuệ là quan trọng. Khi điều ấy phối hợp với khả năng nhất tâm chúng ta sẽ có thểchuyển tất cả năng lượng và sự chú tâm của chúng ta lên một đối tượng hay côngđức duy nhất. Do vậy, sự rèn luyện trong sự tập trung ở đây, và để cho sự rènluyện tập trung và trí huệ thành công đỏi hỏi một nền tảng thật vững vàng của giớiđức, vì thể sự thực tập giới đức hay giới luật thể hiện ở đây.

Giới

Giống như có ba loại rèn luyệntu tập – trong trí huệ, tập trung, và giới đức [tuệ, định, và giới] kinh điểnPhật giáo bao hàm ba sự phân chia – luật tạng, luận tạng, và kinh tạng.

Những hành giả cả nam và nữcó một sự bình đẳng cần thiết để thực hành ba sự rèn luyện này, mặc dù có nhữngsự khác nhau đối với những giới nguyện mà họ thọ lĩnh.

Nền tảng căn bản của sự tu tậpgiới đức là sự hạn chế khỏi mười điều bất thiện: ba thuộc về thân, bốn thuộc vềkhẩu, và ba thuộc về ý.

BaHành Vi Thể Chất Không Đạo đức là:

1. Cướp đi mạng sống của một chúng sinh, từ một côn trùng cho đếnmột con người.

2. Trộm cắp, lấy tài sản của người khác mà không được phép, bất chấpgiá trị của nó, hay quý vị có tự thân tiến hành điều hay không [tổ chức cho ngườikhác làm].

3. Tà dâm, hành vi tình dục bất chính.

BốnHành Vi Nói Năng Không Đạo đức là:

4. Nói dối, lừa gạt người khác qua lời nói hay cử chỉ [vọng ngữ].

5. Nói lời gây chia rẻ, tạo nên sự bất hòa bằng việc làm cho nhữngai đó trong sự đồng thuận đưa đến bất đồng hay những người trong sự bất đồng điđến bất đồng sâu xa hơn [lưỡng thiệt].

6. Nói lời hung dữ, độc ác ngược đãi người khác [ác khẩu].

7. Nói lời vô nghĩa, nói về những điều dại dột bị thúc đẩy bởitham dục và v.v…

BaHành Vi Bất Thiện Về Ý:

8. Tham, thèm muốn sở hữu những gì thuộc về của người khác.

9. Sân hận, mong muốn làm tổn thương kẻ khác, thể hiện nó trong nhữngphương cách lớn hoặc nhỏ.

10. Si, quan điểm sai lầm, nhìn những việc hiện hữu, chẳng hạn nhưtái sinh, nhân quả, hay Tam Bảo như không có.

Giới đức đượcthực hành bởi những người tuân theo cung cách đời sống tu sĩ được xác định lànhững nguyên tắc giải thoát cá nhân – Biệt giải thoát giới[2]. Ở Ấn Độ, có bốn trường phái chính phổ thông nhất, sau này phânchia làm mười tám bộ phái, mỗi bộ phái có giới luật riêng của họ, kinh vănnguyên thủy được thuyết giảng bởi đức Phật, những điều ấy trở thành các hướng dẫncho đời sống của tu sĩ. Sự thực hành tuân thủ trong những tu viện Tây Tạng theotruyền thống Căn Bản Thuyết Nhất Thuyết Hữu[3].

Trong ấy 253 giới điều đượctrao truyền cho những tu sĩ cụ túc giới hay Tỳ-kheo. Trong truyền thống NguyênThủy thệ nguyện giải thoát cá nhân bao gồm 227 giới điều.

Nhằm cung cấp cho chúng ta mộtkhí cụ của chính niệm và tỉnh thức, sự thực tập về giới đức bảo vệ chúng ta khỏitheo đuổi những hành vi bất thiện. Do thế, nó là nền tảng của đạo pháp Phậtgiáo. Vấn đề thứ hai là thiền tập, điều này hướng những hành giả đến sự thực tậpthứ hai được liên hệ với tập trung.

TậpTrung Tinh Thần

Khi chúng ta nói về thiền tậptrong ý nghĩa chung của Phật giáo, có hai loại – thiền định [chỉ] và thiền phântích [quán]. Loại đầu thiền chỉ là sự thực tập tịch tĩnh hay nhất tâm và loạithứ hai là thiền quán để thực hành phân tích. Trong cả hai trường hợp, điều rấtquan trọng để có một nền tảng vững vàng của chính niệm và tỉnh thức, được cungcấp bởi sự thực hành giới luật. Hai nhân tố này, chính niệm và tỉnh thức, làquan trọng không chỉ trong thiền tập, mà cũng quan trọng trong đời sống hằngngày.

Chúng ta nói về nhiều trạngthái của thiền tập, chẳng hạn như những trạng thái của sắc và vô sắc. Những trạngthái của sắc được phân biệt trên căn bản của những chi của chúng, trái lại nhữngtrạng thái vô sắc được phân biệt trên căn bản bản chất của đối tượng của thiềnchỉ.

Chúng ta tiến hành tu tập giớiđức như nền tảng và tu tập tập trung như một nhân tố bổ sung, một khí cụ, đểlàm cho tâm thức phục vụ hữu hiệu. Vì thế, sau này, khi kết hợp với tu tập tríhuệ, chúng ta được trang bị với một tâm thức nhất niệm, mà chúng ta có thể hướngtrực tiếp tất cả các sự chú tâm và năng lượng của mình đến đối tượng được lựachọn. Trong tu tập trí huệ, chúng ta quán chiếu về vô ngã hay tính Không củacác hiện tượng, mà điều ấy cung ứng như một loại đối trị thật sự đến những cảmxúc phiền não.

tongquan-04

Tháp Rajgirthuộc địa phận Nalanda thuộc bang Bihar Ấn Độ

Ba mươi bảy Bồ-đề đạo phẩm [Ba mươi bảy phẩm trợ đạo][4]

Cấu trúc tổng quát của conđường Phật giáo, như được trình bày trong lần chuyển pháp luân thứ nhất, baohàm ba mươi Bồ-đề đạo phẩm. Những điều này bắt đầu với bốn lĩnh vực chính niệm[tứ niệm xứ], điều liên hệ đến sự chính niệm về thân thể, cảm giác, tâm thức,và các pháp. Tuy thế, ở đây, tỉnh thức là thiền tập trên những bản chất khổ đaucủa luân hồi bằng các phương tiện mà qua đó hành giả phát triển một quyết tâmthật sự để giải thoát khỏi vòng sinh tử này.

Tiếp theo là bốn sự từ bỏhoàn toàn [Tứ chính cần], bời vì khi các hành giả phát triển một quyết tâm chânthành để được giải thoát qua sự thực tập bốn sự tỉnh thức, họ dấn thân với mộtphương cách của đời sống mà trong ấy họ từ bỏ những nguyên nhân của khổ đautương lai và phát triển những nguyên nhân của hạnh phúc tương lai.

Vì việc vượt thắng tất cả cáchành vi tiêu cực và cảm xúc phiền não và việc gia tăng các nhân tố tích cựctrong tâm thức chúng ta, những điều được gọi một cách kỹ thuật là tầng lớp củanhững pháp thanh tịnh, có thể được đạt được chỉ khi chúng ta có một tâm thức thậttập trung, cho nên hiện hữu những điều tiếp theo được gọi là bốn nhân tố củanăng lực kỳ diệu [tứ như ý túc].

Tiếp theo những gì được biếtnhư năm bản năng [ngũ căn],năm năng lực [ngũ lực], tám con đường cao quý [bát chính đạo], và bảy chi [thấtgiác chi] của lộ trình giác ngộ.

Đây là cấu trúc chung của lộtrình Phật giáo như được biết đến trong lần chuyển pháp luân đầu tiên. Phậtgiáo được tu tập trong truyền thống Tây Tạng hoàn toàn hòa hợp chặt chẽ với nhữngđặc trưng này của giáo lý Đạo Phật.



[1]Các hiện tượng này bao gồm cả các hiệntượng thuộc về tâm thức, con người, chúng sinh, hay sự vật. Từ đây về sau chữ phápsẽ có thể được dùng thay cho chữ hiện tượngvà sẽ nêu rõ nếu đó là hiệntượng chỉ dành cho riêng một loại đối tượng nào đó.

[2]Tiếng Phạn là pratimokṣa nhấn mạnhviệc giới hạn hành vi hay ứng xử để tránh gây hại cho chúng sinh khác. Giới làmột trong 3 bộ phận quan trọng nhất của Phật giáo (hai bộ phận kia là Định vàTuệ hợp thành Tam Vô Lậu Học). Thành tựu trong việc trì giới sẽ dẫn đến giảithoát cho cá nhân hành giả. Theo Phật giáo Tây Tạng có bảy loại phân giới tùytheo đối tượng là:

Tì-kheo giới [trọng giới], tì-kheo-nigiới, nam sa-di giới (shramanera), nữ sa-di giới (shramanerika), giới dành chonữ sa-di chuẩn bị tăng cấp thành ti-kheo ni (shikshamana), nam cư sĩ giới[ưu-bà-tắc] (upasaka) và nữ cư sĩ giới [ưu-bà-di] (upasika). Ngoài ra, còn lóloại giới giữ trong một ngày cho cư sĩ (ashtangopavasa shiksha).

"Pratimoksha vows". RigpaShedra. <http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Pratimoksha_vows>. Truycập 16/08/2010.

[3]Còn gọi là Thuyết Nhất Thiết Hữu(sarvāstivādin), là một bộ phái Phật giáo cho rằng mọi sự đều có, đều tồn tại[nhất thiết hữu] mà Phạn ngữ viết là “sarvam asti”. Đây là một nhánh của táchra từ Thượng toạ bộ (sthaviravādin) dưới thời vua A-dục. Giáo phái này quan niệmlà tất cả, hiện tại, quá khứ, vị lai đều hiện hữu đồng thời. Quan điểm của bộnày được xem như nằm giữa Tiểu thừa và Đại thừa. Xem thêm chi tiết :

"Thuyết nhất thiết hữu bộ". Wikipedia. <http://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BA%BFt_nh%E1%BA%A5t_thi%E1%BA%BFt_h%E1%BB%AFu_b%E1%BB%99>.Truycập 16/08/2010.

[4]Xem thêm chi tiết về 37 Bồ-đề Đạo Phẩm:

"Tam thập thất bồ-đề phần".Wikipedia.

<http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_th%E1%BA%ADp_th%E1%BA%A5t_b%E1%BB%93-%C4%91%E1%BB%81_ph%E1%BA%A7n>.Truy cập 26/08/2010.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/06/2022(Xem: 10504)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 6875)
Với sự xuất hiện của virus SARS-CoV2 ở Vũ Hán - Trung quốc cuối năm 2019, và tiếp theo sau là sự lây lan rộng khắp thành một đại dịch toàn cầu, các tổ chức Phật giáo đã ra tay hành động khắp nơi trên thế giới. Đáp ứng của Phật giáo rất đa dạng, phản ảnh sự khác biệt giữa các tông phái và các nền văn hóa, tuy nhiên họ đã hội tụ quanh những chủ đề chung theo những tiền lệ đã được ghi sâu trong lịch sử. Một ví dụ về sáng kiến gần đây là dự án “ Làm Phẳng Đường Cong” do Hội Từ Tế ( Tzu Chi Foundation ) Chi Nhánh Hoa Kỳ công bố - đây là một Tổ chức nhân đạo Phật giáo khổng lồ đặt trụ sở trung ương tại Đài-loan, có trên 10 triệu hội viên và 45 chi nhánh khắp thế giới. Trong một thông cáo báo chí vào đầu tháng 4 , Hội Từ Tế Hoa Kỳ tuyên bố rằng họ sẽ phân phối hằng triệu khẩu trang và dụng cụ y tế cho các nhân viên y tế làm việc ở tuyến đầu, và khởi động một chương trình hỗ trợ cho những người chịu tác động của đại dịch về mặt kinh tế xã hội. Những sáng kiến ấy ở Hoa kỳ bổ sung cho
01/02/2022(Xem: 37314)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
17/11/2021(Xem: 26275)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 22409)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
08/11/2021(Xem: 15595)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15603)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 18287)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
24/06/2021(Xem: 5163)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 21943)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]