Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất

15/12/201015:22(Xem: 13118)
Chuyển Pháp Luân Lần Thứ Nhất

TỔNG QUAN

VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

ChuyểnPháp Luân Lần Thứ Nhất

 

Lần giảng dạy đầu tiên nàyđược biết như đợt lần chuyển pháp luân thứ nhất, Ngài đã thuyết về căn bản củaTứ Diệu Đế. Như hầu hết chúng ta có thể biết, bốn chân lý cao quý là chân lý vềkhổ đau [Khổ Đế], chân lý về nguyên nhân của nó [Tập Đế], chân lý về sự chấm dứt[Diệt Đế], và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau [Đạo Đế].

Khi Ngài dạy về Tứ Diệu Đế,theo những kinh điển tìm thấy qua các phiên bản tiếng Tây Tạng, Ngài dạy chúngtrong phạm vi của ba nhân tố: bản chất của những chân lý này, các chức năng củachúng và hiệu quả của chúng.

Tứ Diệu Đế thật sự rất thậmthâm vì toàn thể giáo thuyết Phật giáo có thể thể hiện trong chúng. Những gìchúng ta tìm thấy hạnh phúc và hạnh phúc là tác động của một nguyên nhân và nhữnggì chúng ta không muốn là khổ đau và khổ đau cũng có nguyên nhân của chính nó.

Trong quan điểm về sự quantrọng của bốn chân lý cao quý, tôi thường nhận xét rằng cả khái niệm của Phậtgiáo về duyên khởi lẫn giới hạnh Phật giáo về việc không tổn hại nhấn mạnh về đạolý bất bạo động. Lý do đơn giản cho điều này là sự khổ đau ấy mang đến những điềukhông mong muốn qua nguyên nhân của nó, mà điều ấy một cách căn bản là vô minhcủa chính chúng ta và tâm thức không thuần hóa của chúng ta. Nếu muốn xa lánhkhổ đau, chúng ta phải kiểm soát chính mình khỏi những hành vi tiêu cực là nhữngđiều sẽ cho sinh khởi khổ đau. Và bởi vì khổ đau liên hệ đến những nguyên nhâncủa nó, khái niệm duyên sinh phát khởi. Những hậu quả tùy thuộc trên nhữngnguyên nhân và nếu chúng ta không muốn những hậu quả này, chúng ta phải làm chấmdứt những nguyên nhân của nó.

Vì thế, trong Tứ Diệu Đế,chúng ta thấy hai hệ thống nhân và duyên: khổ đau là sự tác động và cội nguồn củanó là nguyên nhân. Trong cùng cách như thế, chấm dứt hay diệt tận là an bình vàđạo pháp đưa đến nó là nguyên nhân của sự an bình ấy.

Hạnh phúc mà chúng ta tìm cầucó thể được đạt được bằng việc tiến hành rèn luyện và chuyển hóa trong tâm thứccủa chúng ta bằng sự tịnh hóa tâm thức chúng ta. Sự tịnh hóa tâm thức chúng talà có thể khi chúng ta tiêu trừ vô minh si ám, vốn là gốc rể của tất cả các cảmxúc phiền não, và qua đó, chúng ta có thể đạt đến thể trạng diệt tận mà đấy làsự an hòa và hạnh phúc chân thật. Sự diệt tận đó chỉ có thể đạt đến khi chúngta có khả năng thực chứng được bản tính của mọi hiện tượng[1],thâm nhập tính bản nhiên của thực tại, và để làm điều này, sự rèn luyện về trí tríhuệ là quan trọng. Khi điều ấy phối hợp với khả năng nhất tâm chúng ta sẽ có thểchuyển tất cả năng lượng và sự chú tâm của chúng ta lên một đối tượng hay côngđức duy nhất. Do vậy, sự rèn luyện trong sự tập trung ở đây, và để cho sự rènluyện tập trung và trí huệ thành công đỏi hỏi một nền tảng thật vững vàng của giớiđức, vì thể sự thực tập giới đức hay giới luật thể hiện ở đây.

Giới

Giống như có ba loại rèn luyệntu tập – trong trí huệ, tập trung, và giới đức [tuệ, định, và giới] kinh điểnPhật giáo bao hàm ba sự phân chia – luật tạng, luận tạng, và kinh tạng.

Những hành giả cả nam và nữcó một sự bình đẳng cần thiết để thực hành ba sự rèn luyện này, mặc dù có nhữngsự khác nhau đối với những giới nguyện mà họ thọ lĩnh.

Nền tảng căn bản của sự tu tậpgiới đức là sự hạn chế khỏi mười điều bất thiện: ba thuộc về thân, bốn thuộc vềkhẩu, và ba thuộc về ý.

BaHành Vi Thể Chất Không Đạo đức là:

1. Cướp đi mạng sống của một chúng sinh, từ một côn trùng cho đếnmột con người.

2. Trộm cắp, lấy tài sản của người khác mà không được phép, bất chấpgiá trị của nó, hay quý vị có tự thân tiến hành điều hay không [tổ chức cho ngườikhác làm].

3. Tà dâm, hành vi tình dục bất chính.

BốnHành Vi Nói Năng Không Đạo đức là:

4. Nói dối, lừa gạt người khác qua lời nói hay cử chỉ [vọng ngữ].

5. Nói lời gây chia rẻ, tạo nên sự bất hòa bằng việc làm cho nhữngai đó trong sự đồng thuận đưa đến bất đồng hay những người trong sự bất đồng điđến bất đồng sâu xa hơn [lưỡng thiệt].

6. Nói lời hung dữ, độc ác ngược đãi người khác [ác khẩu].

7. Nói lời vô nghĩa, nói về những điều dại dột bị thúc đẩy bởitham dục và v.v…

BaHành Vi Bất Thiện Về Ý:

8. Tham, thèm muốn sở hữu những gì thuộc về của người khác.

9. Sân hận, mong muốn làm tổn thương kẻ khác, thể hiện nó trong nhữngphương cách lớn hoặc nhỏ.

10. Si, quan điểm sai lầm, nhìn những việc hiện hữu, chẳng hạn nhưtái sinh, nhân quả, hay Tam Bảo như không có.

Giới đức đượcthực hành bởi những người tuân theo cung cách đời sống tu sĩ được xác định lànhững nguyên tắc giải thoát cá nhân – Biệt giải thoát giới[2]. Ở Ấn Độ, có bốn trường phái chính phổ thông nhất, sau này phânchia làm mười tám bộ phái, mỗi bộ phái có giới luật riêng của họ, kinh vănnguyên thủy được thuyết giảng bởi đức Phật, những điều ấy trở thành các hướng dẫncho đời sống của tu sĩ. Sự thực hành tuân thủ trong những tu viện Tây Tạng theotruyền thống Căn Bản Thuyết Nhất Thuyết Hữu[3].

Trong ấy 253 giới điều đượctrao truyền cho những tu sĩ cụ túc giới hay Tỳ-kheo. Trong truyền thống NguyênThủy thệ nguyện giải thoát cá nhân bao gồm 227 giới điều.

Nhằm cung cấp cho chúng ta mộtkhí cụ của chính niệm và tỉnh thức, sự thực tập về giới đức bảo vệ chúng ta khỏitheo đuổi những hành vi bất thiện. Do thế, nó là nền tảng của đạo pháp Phậtgiáo. Vấn đề thứ hai là thiền tập, điều này hướng những hành giả đến sự thực tậpthứ hai được liên hệ với tập trung.

TậpTrung Tinh Thần

Khi chúng ta nói về thiền tậptrong ý nghĩa chung của Phật giáo, có hai loại – thiền định [chỉ] và thiền phântích [quán]. Loại đầu thiền chỉ là sự thực tập tịch tĩnh hay nhất tâm và loạithứ hai là thiền quán để thực hành phân tích. Trong cả hai trường hợp, điều rấtquan trọng để có một nền tảng vững vàng của chính niệm và tỉnh thức, được cungcấp bởi sự thực hành giới luật. Hai nhân tố này, chính niệm và tỉnh thức, làquan trọng không chỉ trong thiền tập, mà cũng quan trọng trong đời sống hằngngày.

Chúng ta nói về nhiều trạngthái của thiền tập, chẳng hạn như những trạng thái của sắc và vô sắc. Những trạngthái của sắc được phân biệt trên căn bản của những chi của chúng, trái lại nhữngtrạng thái vô sắc được phân biệt trên căn bản bản chất của đối tượng của thiềnchỉ.

Chúng ta tiến hành tu tập giớiđức như nền tảng và tu tập tập trung như một nhân tố bổ sung, một khí cụ, đểlàm cho tâm thức phục vụ hữu hiệu. Vì thế, sau này, khi kết hợp với tu tập tríhuệ, chúng ta được trang bị với một tâm thức nhất niệm, mà chúng ta có thể hướngtrực tiếp tất cả các sự chú tâm và năng lượng của mình đến đối tượng được lựachọn. Trong tu tập trí huệ, chúng ta quán chiếu về vô ngã hay tính Không củacác hiện tượng, mà điều ấy cung ứng như một loại đối trị thật sự đến những cảmxúc phiền não.

tongquan-04

Tháp Rajgirthuộc địa phận Nalanda thuộc bang Bihar Ấn Độ

Ba mươi bảy Bồ-đề đạo phẩm [Ba mươi bảy phẩm trợ đạo][4]

Cấu trúc tổng quát của conđường Phật giáo, như được trình bày trong lần chuyển pháp luân thứ nhất, baohàm ba mươi Bồ-đề đạo phẩm. Những điều này bắt đầu với bốn lĩnh vực chính niệm[tứ niệm xứ], điều liên hệ đến sự chính niệm về thân thể, cảm giác, tâm thức,và các pháp. Tuy thế, ở đây, tỉnh thức là thiền tập trên những bản chất khổ đaucủa luân hồi bằng các phương tiện mà qua đó hành giả phát triển một quyết tâmthật sự để giải thoát khỏi vòng sinh tử này.

Tiếp theo là bốn sự từ bỏhoàn toàn [Tứ chính cần], bời vì khi các hành giả phát triển một quyết tâm chânthành để được giải thoát qua sự thực tập bốn sự tỉnh thức, họ dấn thân với mộtphương cách của đời sống mà trong ấy họ từ bỏ những nguyên nhân của khổ đautương lai và phát triển những nguyên nhân của hạnh phúc tương lai.

Vì việc vượt thắng tất cả cáchành vi tiêu cực và cảm xúc phiền não và việc gia tăng các nhân tố tích cựctrong tâm thức chúng ta, những điều được gọi một cách kỹ thuật là tầng lớp củanhững pháp thanh tịnh, có thể được đạt được chỉ khi chúng ta có một tâm thức thậttập trung, cho nên hiện hữu những điều tiếp theo được gọi là bốn nhân tố củanăng lực kỳ diệu [tứ như ý túc].

Tiếp theo những gì được biếtnhư năm bản năng [ngũ căn],năm năng lực [ngũ lực], tám con đường cao quý [bát chính đạo], và bảy chi [thấtgiác chi] của lộ trình giác ngộ.

Đây là cấu trúc chung của lộtrình Phật giáo như được biết đến trong lần chuyển pháp luân đầu tiên. Phậtgiáo được tu tập trong truyền thống Tây Tạng hoàn toàn hòa hợp chặt chẽ với nhữngđặc trưng này của giáo lý Đạo Phật.



[1]Các hiện tượng này bao gồm cả các hiệntượng thuộc về tâm thức, con người, chúng sinh, hay sự vật. Từ đây về sau chữ phápsẽ có thể được dùng thay cho chữ hiện tượngvà sẽ nêu rõ nếu đó là hiệntượng chỉ dành cho riêng một loại đối tượng nào đó.

[2]Tiếng Phạn là pratimokṣa nhấn mạnhviệc giới hạn hành vi hay ứng xử để tránh gây hại cho chúng sinh khác. Giới làmột trong 3 bộ phận quan trọng nhất của Phật giáo (hai bộ phận kia là Định vàTuệ hợp thành Tam Vô Lậu Học). Thành tựu trong việc trì giới sẽ dẫn đến giảithoát cho cá nhân hành giả. Theo Phật giáo Tây Tạng có bảy loại phân giới tùytheo đối tượng là:

Tì-kheo giới [trọng giới], tì-kheo-nigiới, nam sa-di giới (shramanera), nữ sa-di giới (shramanerika), giới dành chonữ sa-di chuẩn bị tăng cấp thành ti-kheo ni (shikshamana), nam cư sĩ giới[ưu-bà-tắc] (upasaka) và nữ cư sĩ giới [ưu-bà-di] (upasika). Ngoài ra, còn lóloại giới giữ trong một ngày cho cư sĩ (ashtangopavasa shiksha).

"Pratimoksha vows". RigpaShedra. <http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Pratimoksha_vows>. Truycập 16/08/2010.

[3]Còn gọi là Thuyết Nhất Thiết Hữu(sarvāstivādin), là một bộ phái Phật giáo cho rằng mọi sự đều có, đều tồn tại[nhất thiết hữu] mà Phạn ngữ viết là “sarvam asti”. Đây là một nhánh của táchra từ Thượng toạ bộ (sthaviravādin) dưới thời vua A-dục. Giáo phái này quan niệmlà tất cả, hiện tại, quá khứ, vị lai đều hiện hữu đồng thời. Quan điểm của bộnày được xem như nằm giữa Tiểu thừa và Đại thừa. Xem thêm chi tiết :

"Thuyết nhất thiết hữu bộ". Wikipedia. <http://vi.wikipedia.org/wiki/Thuy%E1%BA%BFt_nh%E1%BA%A5t_thi%E1%BA%BFt_h%E1%BB%AFu_b%E1%BB%99>.Truycập 16/08/2010.

[4]Xem thêm chi tiết về 37 Bồ-đề Đạo Phẩm:

"Tam thập thất bồ-đề phần".Wikipedia.

<http://vi.wikipedia.org/wiki/Tam_th%E1%BA%ADp_th%E1%BA%A5t_b%E1%BB%93-%C4%91%E1%BB%81_ph%E1%BA%A7n>.Truy cập 26/08/2010.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/11/2011(Xem: 3596)
Trong khoảng bốn mươi năm gần đây, phong trào Nữ quyền (Feminism) không ngớt làm sôi động dư luận. Chỉ riêng với tổ chức Liên hiệp quốc, năm 1952 bổn Tuyên ngôn về Quyền chính trị của Nữ giới được long trọng tuyên khải. Năm 1975 được gọi là năm quốc tế Nữ quyền, và Liên hiệp quốc triệu tập Hội nghị Thế giới về Nữ quyền tại Mexico. Hội nghị đầu tiên về Quyền sinh sản Làm mẹ và quyền tự do lựa chọn ngừa thai hay phá thai họp tại Nairobi, Phi châu năm 1985. Mười năm sau, năm 1995, Liên hiệp quốc tổ chức Đại Hội Nữ quyền Thế giới tại Bắc kinh, thủ đô của nước Trung hoa. Hội nghị kết hợp 185 quốc gia, gồm 4000 đại biểu chính phủ thảo luận trong mười ngày nhằm thay đổi đường lối, chính sách của các quốc gia để cải thiện phương tiện y tế, giáo dục, kinh tế và chính trị trong đời sống người đàn bà.
15/10/2011(Xem: 3818)
Nữ giới Mỹ đang đưa Phật giáo bước ra khỏi chế độ phụ hệ (tộc trưởng) củaquá khứ, tham gia tự tinvào các lãnh vực như là các học viên, giáosư, và các nhà lãnh đạo. Công việc này chưa phải là kết thúc, Tiến sĩ Rita M. Gross, một trong những nhà tư tưởng nữ quyền hàng đầu của Phật giáonói, nhưng vai trò của phụ nữ Phật giáo Mỹ là chưa từng cóvà họ có thể tiếp tục thay đổi Phật giáo.
19/06/2011(Xem: 5903)
Chuyện nam nữ có lẽ là vấn đề (tạm gọi) - là muôn thuở. Nó bắt đầu từ thời kỳ hồng hoang mà đến nay vẫn mang tính thời sự nóng hổi! Để bàn vấn đề này liên quan đến tổ chức, quan điểm của Phật giáo, có lẽ phải bắt đầu từ những lý do căn bản như sau.
27/04/2011(Xem: 6449)
Bên cạnh sức hấp dẫn đặc biệt từ thực tế rùng mình áp đặt lên người phụ nữ, Bị thiêu sống còn thu hút độc giả qua giọng văn giản dị, truyền cảm.
04/01/2011(Xem: 52120)
QUYỂN 5 MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI BỐN (Năm 574 trước TL) 91 CÁC LOẠI CỎ Đầu Xuân, khi trời mát mẻ, đức Phật tính chuyện lên đường trở về Sāvatthi. Thấy hội chúng quá đông, đức Phật bảo chư vị trưởng lão mỗi vị dẫn mỗi nhóm, mỗi chúng phân phối theo nhiều lộ trình, qua nhiều thôn làng để tiện việc khất thực. Hôm kia, trời chiều, cạnh một khu rừng, với đại chúng vây quanh, đức Phật ngắm nhìn một bọn trẻ đang quây quần vui chơi bên một đám bò đang ăn cỏ; và xa xa bên kia, lại có một đám trẻ khác dường như đang lựa tìm để cắt những đám cỏ xanh non hơn; ngài chợt mỉm cười cất tiếng gọi:
15/12/2010(Xem: 20606)
Đọc “Tổng Quan Những Con Đường Của Phật Giáo Tây Tạng”, chúng ta sẽ thấy đức Dalai Lama là một bậc Đại Tri Viên, ngài chỉ rõ tất cả mọi con đường để chúng thấy rõ, nhất là con đường Tantra...
16/11/2010(Xem: 8289)
Chúng tôi vui mừng biết rằng Hội Nghị Quốc Tế Sakyadhita về Đạo Phật và Phụ Nữ được tổ chức tại Đài Loan và được phát biểu bởi một tầng lớp rộng rãi những diễn giả từ thế giới Phật Giáo. Chúng tôi tin tưởng vững chắc rằng, những người Phật tử chúng ta có một đóng góp nổi bật để làm lợi ích cho nhân loại theo truyền thống và triết lý đạo Phật.... Thực tế, Đức Phật xác nhận rằng cả nữ và nam có một cơ hội bình đẳng và khả năng để thực hành giáo pháp và để thành đạt mục tiêu tu tập.
10/09/2010(Xem: 58880)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
06/09/2010(Xem: 3628)
Theo tinh thần Phật giáo Đại thừa, chư vị Bồ tát tùy loại ứng hiện thân, nghĩa là mang thân hình nào có thể giúp cho nhiều người hướng thiện, an vui, giải thoát thì các Ngài hiện diện với thân hình đó; vì các vị Bồ tát xem thân vật chất này như chiếc áo mặc bên ngoài, hay một phương tiện để thực hiện sáu pháp Ba la mật của Bồ tát hạnh.
04/09/2010(Xem: 3258)
Ở một góc độ nào đó, nếu khách quan mà nhìn chúng ta chắc chắn sẽ tìm được một sự công bằng, bình đẳng nào đó. Nhưng thực tế, khi đã nói ?chúng ta nhìn? tức đã nhuốm màu ngã tính với cái nhìn đây của ta, là của ta, là tự ngã của ta. Và đó cũng chính là nguyên nhân của biết bao sự bất bình đẳng, sự kỳ thị màu da chủng tộc, đặc biệt là sự phân biệt nam nữ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]