Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cảm tưởng về Đại hội văn hóa PG.

09/04/201312:29(Xem: 4906)
Cảm tưởng về Đại hội văn hóa PG.

image002

VÀI CẢM TƯỞNG PHÁT BIỂU TẠI ÐẠI HỘI VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM Ở SAN DIEGO NGÀY 4.1.2003

Ỷ LANÜ

Thượng tọa Thích Nguyên Siêu, Tổng vụ trưởng Tổng vụ Văn hóa có đề nghị tôi phát biểu đôi lời cảm tưởng về Ðại hội Văn hóa Phật giáo hôm nay. Xin thành thật cảm ơn mỹ ý của Thượng tọa.

Thực sự, tôi rất xúc động đến tham dự Ngày hội Văn hóa Phật giáo tổ chức lần đầu tiên ở hải ngoại. Từ sáng đến giờ chúng ta đã được nghe những Ðại gia văn hóa Phật giáo, từ trong nước ra đến ngoài nước, phát biểu. Riêng tôi, là ngoại nhân của nền văn hóa ấy, vì tôi chỉ là một người ngoại quốc chưa hề có vinh hạnh đặt chân lên đất nước Việt Nam, nên sự hiểu biết về nền văn hóa lớn lao này hết sức thô thiển. Nhưng theo dõi và lắng nghe, tôi mừng rỡ một điều, là mình không hiểu sai lạc nền văn hóa ấy, mình đã đi đúng đường khi tháp tùng và sống với nền văn hóa này bao nhiêu năm qua.

Hình ảnh của Việt Nam và Phật giáo gây chấn động tâm tư tôi hồi còn trẻ, hồi tôi chưa hề biết Việt Nam ở đâu trên quả địa cầu. Ðó là hình ảnh Bồ tát Thích Quảng Ðức tựï thiêu mà tôi nhìn thấy trên truyền hình bên Anh quốc vào tháng 6 năm 1963. Lúc ấy, lòng từ bi trong tôi được thức tỉnh, cùng lúc với một nguồn Ánh sáng vô biên chọc thủng màn sương mù Anh quốc, soi sáng thế giới trầm lặng yên ả nơi quê hương tôi. Tôi bắt đầu thấy còn nhiều điều mình phải lưu tâm trên trái đất, còn có những thế giới khác ngoài thế giới mình đang sống, còn có nhiều nền văn hóa, văn minh ngoài nền văn minh Tây phương. Nghĩ lại thời ấy mình chẳng khác chi con ếch nằm đáy giếng. Thời gian sau, tình cờ mà cũng là may mắn lớn, tôi đến nghe anh Võ Văn Ái thuyết trình về Văn hóa Việt Nam và Phật giáo tại cố đô York của tôi. Hồi đó nhiều phong trào đấu tranh rầm rộ ở phương Tây cho hòa bình Việt Nam. Nhưng hầu như tất cả các phong trào này chống Mỹ và ủng hộ lập trường chính trị của Hà Nội. Ðiều gây ngạc nhiên và chú ý cho chúng tôi ở York là anh Ái nói đến một thực tại khác về đa số thầm lặng của nhân dân Việt Nam đang là nạn nhân của cuộc chiến tranh thừa sai của các siêu cường.

Ðó là con đường đưa tôi đến với Việt Nam : qua hình ảnh của một vị Bồ Tát cứu đời, như một nền văn minh của Ánh Sáng Thức tỉnh, rồi qua trung gian của anh Ái, tôi được học tập và thấm nhuần nền văn hóa Việt Nam và Phật giáo.

Ngày nay, đi thuyết trình đây đó trong cộng đồng người Việt hải ngoại, thỉnh thoảng tôi nghe có số người chủ trương rằng, bây giờ chỉ nên chuyên lo “tu học, tu hành”, chỉ nên “làm văn hóa” mà thôi, đừng “tranh đấu”, đừng “làm chính trị”.

Tôi ngạc nhiên vì sao nền tư tưởng Bất Nhị của Ðông phương bỗng tha hóa thành lối suy nghĩ Nhị nguyên như thế ? Khi đọc sách và nghiên cứu về Việt Nam, tôi thấy suốt quá trình 2000 năm, những nhà Sư, những Cư sĩ Phật giáo luôn đứng đầu trên mọi trận tuyến bảo vệ nền độc lập dân tộc, phát triển xã hội và chiến đấu cho sự tự do, an lạc và no ấm của con người. Trong quá trình lịch sử ấy, tôi không hề thấy sự phân biệt giữa văn hóa với chính trị, giữa xã hội với tôn giáo, giữa đời và đạo. Trong những năm qua, khi tiếp xúc và làm việc chung với người Tây Tạng, tôi cũng nhận thấy tính chất không phân haiy hệt như lối suy nghĩ và hành động của người theo đạo Phật trong quá khứ lịch sử Việt Nam.

Ðức Dalai Lama là hình ảnh đại diện của một nền Văn minh Ánh sáng Giác ngộ. Nghe Ngài nói chuyện, tôi không biết Ngài đang thuyết trình về một lập trường chính trị hay Ngài đang thuyết pháp ? Thế nhưng sự ăn nói của Ngài thuyết phục chúng ta và thế giới, vừa là một giải pháp chính trị cho toàn dân Tây Tạng, vừa là sự khai mở cho quê hương tâm linh nhân loại. Ðâu là biên giới giữa chính trị và tôn giáo ? giữa thế tục và tâm linh ? Tôi nghĩ rằng, phải chứng đắc Phật Pháp mới vượt qua khỏi mọi lằn ranh phân biệt làm thiệt hại cho hạnh nguyện Bồ tát cứu đời. Mấy năm trước, được Ðức Dalai Lama mời, tôi tháp tùng anh Võ Văn Ái đến thăm Dharamsala, thủ đô tị nạn của người Tây Tạng. Tại đây, tôi cũng nhận rõ sự không phân haitrong đời sống hằng ngày của người Tây Tạng. Họ hoạt động tại Quốc hội Tây Tạng, hay họ gia công trong các xưởng thủ công mỹ nghệ, họ tập luyện và bảo trì các vũ điệu truyền thống, hay họ công tác tại Trung tâm Nhân quyền Dân chủ, họ tụng niệm trong các tu viện, hay từ các văn phòng Ðại diện tại các thủ đô AÂu Mỹ họ về nhận chỉ thị ở Dharamsala... những hình thái sinh hoạt khác nhau, trên những lĩnh vực hoàn toàn khác nhau. Nhưng tất cả họ đều hướng tới mục tiêu duy nhất : giải phóng Tây Tạng và phát huy nền văn hóa tâm linh của Tây Tạng.Không một thoáng giây phân biệt, đâu là văn hóa, đâu là chính trị, đâu là đạo, đâu là đời, đâu là tăng, đâu là tục. Việc gì họ cũng thong dong tham gia, vì họ mang lý tưởng duy nhất : Trên cầu Trí Giác, dưới cứu Chúng sinh. Ðó là chỗ khác với những quan điểm nhị nguyên đang phân hóa xã hội và làm khổ đau loài người.

Ý nghĩ cuối cùng tôi xin được nêu ra làm lời kết luận. Ðó là hình ảnh của Ðại lão Hòa thượng Thích Huyền Quang, vị lãnh đạo Viện Tăng Thống, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, và cũng là Bổn sư của tôi. Năm nay Ngài đang “kỷ niệm” năm tù đày thứ 20. Người ta dùng chữ kỷ niệm để nhắc những gì vui, ở đây tôi lại muốn kỷ niệm một chuyện buồn lòng của bậc Cao tăng mà cũng là chuyện bi thảm của người dân Việt. Những bậc Cao tăng giáo phẩm lâm hoàn cảnh tương tự, như Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, Viện trưởng Viện Hóa Ðạo, hay hai Thượng tọa Tuệ Sỹ và Trí Siêu Lê Mạnh Thát, thì nhờ cuộc đấu tranh của toàn thể Phật tử hải ngoại, trong đó có Cơ sở Quê Mẹ và Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, tạo nên áp lực quốc tế mạnh mẽ, ba vị đã được ân xá năm 1998. Dù rằng, Hòa thượng Thích Quảng Ðộ, đã bị nhà cầm quyền cộng sản bắt cầm tù trở lại kể từ tháng sáu năm ngoái.

Ở Ðại hội hôm nay, chúng ta vui mừng đón nhận hai thông điệp của hai Thượng tọa Tuệ Sỹ và Trí Siêu Lê Mạnh Thát từ trong nước gửi ra. Ðiều tôi vô cùng thích thú, là cách xa hàng chục nghìn cây số, không hề được gặp nhau, vậy mà thông điệp của Thượng tọa Lê Mạnh Thát nhắc đến bài thơ “Vận nước” của thiền sư Pháp Thuận, bài tham luận của anh Võ Văn Ái cũng nhắc đến thiền sư Pháp Thuận với bài “Vịnh Nga” đối đáp với sứ Lý Giác và bài “Vận nước” mà anh đã cho đăng trên giai phẩm Quê Mẹ Xuân năm 1987 như một Tuyên ngôn Dựng nước, một Tuyên ngôn Hòa bình.

Tôi chưa có cơ duyên gặp hai Thượng tọa, nhưng đã biết tên tuổi hai vị từ lâu. Do anh Ái giới thiệu và cũng do cuộc vận động quốc tế mà tôi trực tiếp tham gia khi nghe tin hai Thượng tọa bị cộng sản kết án tử hình năm 1988. Cộng sản rất khôn, khi kết án họ chỉ gọi tên thế tục là Phạm Văn Thương và Lê Mạnh Thát, mà không nêu Pháp danh, Pháp vị. Thời ấy không như bây giờ, các hãng thông tấn quốc tế chưa có nhiệm sở ở Hà Nội, báo chí trong nước không phổ biến ra nước ngoài. Do hoạt động lâu năm, cơ sở Quê Mẹ của chúng tôi có đường dây riêng để theo dõi tin tức trong nước. Khi hay tin, chúng tôi báo động tức khắc cho các tổ chức Nhân quyền trong thế giới như AÂn xá Quốc tế, Liên Ðoàn Quốc tế Nhân quyền, Human Rights Watch, v.v... nói cho họ biết Phạm Văn Thương là Thích Tuệ Sỹ đó, Lê Mạnh Thát là Thích Trí Siêu đó. Chúng tôi còn can thiệp đồng thời cho người lãnh án tử hình thứ ba là ông Trần Văn Lương, mà ít ai trong cộng đồng để ý. Cứu người như cứu lửa, xong việc thông tin, chúng tôi bỏ ra 13 ngày vận động khẩn cấp đến các chính phủ trong thế giới, Liên Hiệp Quốc và các tổ chức quốc tế lớn. Hầu như các Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch các Quốc hội AÂu, Mỹ, Úc, Á đều đáp lời của cơ sở Quê Mẹ lên tiếng bênh vực cho hai Thượng tọa. Tại Hoa Kỳ, nơi mà chúng ta đang mở Ðại hội Văn hóa hôm nay, tuy chưa có bang giao với Việt Nam thời ấy, nhưng chính phủ Hoa Ky øcũng đã đáp ứng lời kêu gọi của chúng tôi tham gia tạo áp lực. Chủ tịch Công đoàn Hoa Kỳ AFL-CIO, đại diện cho 14 triệu đoàn viên, chính thức viết thư về Hà Nội phản đối và yêu sách. Một sáng kiến của anh Ái mà sau này chúng tôi mới nhận thấy là độc đáo. Trong bữa họp của cơ sở Quê Mẹ, ai cũng lo âu thắc mắc : “Làm sao cứu gấp hai Thầy ? Cộng sản sẽ làm ẩu để giết hai nhân tài của Phật giáo ? Cứu hai Thầy cũng là cứu Phật giáo”. Bàn qua tính lại, anh Ái điềm tỉnh đưa ý kiến : “Mình đã thành công dấy động dư luận AÂu Mỹ rồi. Bây giờ phải đến nhờ các quốc gia thân hữu với Hà Nội thì may ra cứu được hai Thầy. Thụy Ðiển là nước ủng hộ Hà Nội từ trước năm 1975, phải lên đó một chuyến”. Ngày hôm sau, tôi và anh Ái đi Thụy Ðiển xin gặp Thủ tướng Ingvar Carlsson, tha thiết trình bày vận mệnh như tơ mành trước gió của hai nhà đại tri thức Phật giáo, và là nhân tài của Việt Nam, để xin cầu cứu. Bất ngờ thấy gương mặt Thủ tướng xúc động, ông liền đánh điện sang Thái Lan yêu cầu Ngoại trưởng Thụy Ðiển đi gấp sang Việt Nam can thiệp cho hai Thượng tọa, lúc ấy ông này đang công tác ở Bangkok. Trở về Paris mấy hôm, Thủ tướng Ingvar Carlsson viết thư báo tin vui cho anh Võ Văn Ái, rằng Ngoại trưởng đã đến Hà Nội gặp Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh và chính phủ Việt Nam can thiệp và đã được lãnh đạo cộng sản hứa hủy án tử hình cho hai nhà Sư, còn trường hợp ông Trần Văn Lương họ chưa tìm ra hồ sơ. Do anh Ái chất vấn liên tục tại các khóa họp nhân quyền tại Liên Hiệp Quốc ở Genève, mấy năm sau Phái đoàn Hà Nội trả lời là ông Lương vẫn còn sống trong một trại giam.

Kể lại một kinh nghiệm có ý nghĩa đã qua liên hệ đến hai Thượng tọa mà tôi chứng kiến và tham dự. Nhưng điều tôi muốn nói ở đây không là chuyện tù đày, là chuyện cơm bữa tại Việt Nam. Ðiều tôi muốn được quý liệt vị lưu tâm, là mấy mươi năm qua khi hàng giáo phẩm lãnh đạo Phật giáo bị tù đày, thì mấy mươi năm ấy, nền Văn hóa Giác ngộ của đạo Phật cũng bị truy bức, bị xích xiềng.

Xin quý vị thử nghĩ đến bao nhiêu năm chư vị Cao tăng bị quan chế, tù đày ấy, biết bao là tác phẩm văn học Phật giáo không được quyền trước tác, xuất hiện, lưu truyền, thì chúng ta sẽ hiểu ngay tấn bi kịch văn hóa và cuộc đại nạn của Phật giáo và quê hương Việt Nam ngày nay.

San Diego, 4.1.2003

Ỷ Lan



ÜPhó chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Quyền làm Người Việt Nam, kiêm Phó Giám đốc Phòng Thông tin Phật giáo Quốc tế, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất, đặc trách Vụ Quốc tế.

--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2010(Xem: 6851)
Nghi lễ biểu hiện lòng thành kính đối với Tam Bảo: Tín đồ luôn có một niềm tin sâu sắc và thành kính đối với Tam Bảo. Niềm tin đó tạo sự chuyển hóa trong nội tâm...
17/09/2010(Xem: 3907)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
10/09/2010(Xem: 50919)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
03/09/2010(Xem: 5253)
Ở Tây Tạng, núi non thường được xem như nơi cư ngụ của những bổn tôn. Thí dụ, Amnye Machen, một ngọn núi ở Đông Bắc Tây Tạng, được coi như trú xứ của Machen Pomra, một trong những bổn tôn quan trọng nhất của Amdo, tỉnh nhà của chúng tôi. Bởi vì tất cả những người ở Amdo xem Machen Pomra là người bạn đặc biệt của họ, nhiều đoàn người đi vòng quanh chân núi trong cuộc hành hương.
28/08/2010(Xem: 52573)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 6674)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 51776)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
28/08/2010(Xem: 9297)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
27/08/2010(Xem: 20851)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
22/07/2010(Xem: 12164)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567