Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lễ Raksha Bandhan trong phong tục Ấn Độ.

09/04/201312:20(Xem: 4384)
Lễ Raksha Bandhan trong phong tục Ấn Độ.

LỄ RAKSHA BANDHAN
TRONG PHONG TỤC ẤN ĐỘ

Lê Bích Sơn

Hàng năm, khi người Việt khắp nơi với bao nỗi niềm và tâm trạng chào đón mùa Vu Lan Báo Hiếu, thì cũng là lúc trên khắp đất nước Ấn Độ người ta hân hoan kỷ niệm ngày Raksha Bandhan. Lễ Raksha Bandhan còn gọi là lễ Rakhi hay ngày Shravan Purnima.

Truyền thuyết ngày Raksha Bandhan được đề cập trong rất nhiều thiên sử thi và thiên hùng ca văn học Ấn Độ. Theo sử thi “Bhavishya Puran” (một trong mười tám bộ sử thi kinh điển Vệ-Đà), ngày lễ Raksha Bandhan dựa trên truyền thuyết về cuộc chiến giữa các thiên thần (gods) và quỷ dữ (demons). Trong cuộc chiến này, quỷ vương Brutra đã đánh bại đội binh thiên thần của Thiên vương Indra. Được tin các thiên thần thất trận, Thiên vương Indra tiếp kiến và xin Đạo sư Brihaspati (Guru Brihaspati) tìm cách cứu vãng tình thế. Brihaspati trao Thiên vương Indra những sợi chỉ thần đã được niệm thần chú gia trì (trì chú) vào ngày Shravan Purnima (ngày trăng tròn tháng Shravan lịch Ấn Độ), và dặn Thiên vương Indra đeo vào cổ tay trong ngày xuất trận. Rồi ngày quyết định ra quân đã đến, phu nhân Thiên vương Indra là bà Sachi (còn gọi là Indrani) cẩn thận đeo những sợi chỉ thần vào tay chồng mình. Người ta tin rằng với sự mầu nhiệm và năng lực siêu nhiên từ những sợi chỉ thần “Raksha” các thiên thần đã thắng trận.

Một truyền thuyết khác được tìm thấy trong văn học Ấn Độ, truyền thuyết như sau: Quỷ vương Bali là người vô cùng tôn sùng Thần Vishnu (thần bảo hộ thế giới); để đáp lại điều đó, Thần Vishnu có trách nhiệm phải bảo vệ vương quốc của Quỷ vương Bali. Thần Vishnu rời nơi cư ngụ của mình là Vaikunth đến vương quốc Quỷ vương Bali thực hiện trách nhiệm của mình. Nữ thần Laxmi (vợ của thần Vishnu) với ước mong chồng mình sớm trở về với gia đình, Laxmi đã tìm đến vương quốc Bali hoá thân thành một phụ nữ Bà-la-môn, ẩn náu trong vương quốc này chờ ngày chồng này hồi quy. Trong khi vương quốc Bali tổ chức đón ngày trăng tròn tháng Shravan (theo văn hoá Ấn Độ một tháng 30 ngày được chia ra làm hai tháng nhỏ gọi là: tháng có trăng và tháng không trăng), Nữ thần Laxmi đã tìm cách cột những sợi chỉ thiêng vào tay của Quốc vương Bali như bày tỏ sự chúc phúc. Xúc động trước nghĩa cử này, Quốc vương Bali liền hỏi nàng là ai và tại sao đến đó. Nhân dịp này, Laxmi trình bày nguyên nhân và nguyện vọng của nàng đến vương quốc Bali. Nghe xong, quốc vương Bali vô cùng cảm động bèn tâu trình đến Thần Vishnu hãy trở về Vaikunth để tận hưởng hạnh phúc bên nàng Laxmi, trọn đời bảo vệ nàng; và quốc vương nguyện trọn đời hiến thân cho thần Vishnu. Chính vì thế mà lễ Raksha Bandhan còn gọi là “Baleva” nghĩa là lễ Quốc vương Bali người hiến thân cho thần Vishnu. Kể từ đó đến ngày trăng tròn tháng Shravan hàng năm, người Ấn có truyền thống mời tất cả chị em trong gia đình cột những sợi chỉ thiêng vào cổ tay như sự chúc phúc từ các chị hay em gái, và người anh trai, em trai trong gia đình có trách nhiệm bảo vệ các chị gái, em gái của mình.

Một truyền thuyết khác cũng được nhắc đến trong ngày Raksha Bandhan rằng: Raksha Bandhan là một hình thức lễ nghi giữa Yama (Diêm Ma, còn gọi là Diêm-La Vương) và chị gái là Yamuna (chị em sinh đôi với Yami). Yamuna đã cột sợi chỉ thiêng “rakhi” vào cổ tay Yama và cầu chúc Yama bất tử với thời gian. Cảm động trước việc làm này, Yama tuyên bố nếu ai được cột những sợi chỉ thiêng Rakhi và hứa sẽ bảo vệ chị-em gái mình suốt đời, người ấy sẽ trở thành bất tử.

Bộ sử thi vĩ đại của Ấn Độ “Mahabharata” chép rằng: Khi thần Krishna khuyên Yudhishthir cử hành lễ thiêng để bảo vệ Yudhishthir trước sự nguy hiểm của những kẻ thù địch trong chiến trận. Bà Kunti – mẹ của thần Pandavas – đã cột những sợi chỉ thiêng Rakhi vào các cháu nội của bà là Abhimanyu và Draupadi với thần Krishna. Đây là sự lý giải tại sao lễ Raksha Bandhan được tiến hành….

Ngày nay, Raksha Bandhan là một trong những ngày lễ đặc biệt đối với hầu hết người dân vùng bắc Ấn. Đây là một trong những ngày lễ quan trọng của người Ấn Độ. Trong ngày này, các chị em gái trong nhà chuẩn bị các sợi chỉ thiêng Rakhi đeo vào cổ tay của anh em trai trong gia đình và những người thân như sự cầu chúc sự khoẻ mạnh để có thể gánh vác mọi trọng trách từ gia đình đến xã hội. Từ sáng, các chị em gái đã chuẩn bị các “thali” (mâm, khay) “đồ lễ” trong đó có các loại bánh ngọt, gạo màu, bột màu kumkum, nhang thơm, đèn diya hoặc đèn dầu mù-tạt, v.v. và dĩ nhiên là không quên các sợi chỉ thiêng rakhi. Mâm đồ lễ này trước được dâng cúng các vị thần bảo hộ gia đình và tổ tiên. Sau đó, các chị em gái tiến hành cột vào tay các anh em trai những sợi chỉ thiêng rakhi, rồi “Tilaks” (dùng bột màu kumkum trét vào trán) các anh em trai và mời bánh ngọt. Trong khi tiến hành những việc này, các chị em thường đọc: “Suraj shakhan chhodian, Mooli chhodia beej. Behen ne rakhi bandhi / Bhai tu chir jug jee” (Mặt trời toả ánh sáng, củ cải đỏ luôn lan trải giống tốt của mình, chị / em cột những sợ chỉ thiêng rakhi vào tay anh / em, cầu nguyện rằng anh / em sẽ được sống lâu trăm tuổi). Sau khi chúc thọ, tiếp đến các cô đọc: “Yena baddho Balee raajaa daanavendro mahaabalah tena twaam anubadhnaami rakshe maa chala maa chala” (Chị / em đeo những sợ chỉ thiêng rakhi vào tay anh / em mà quốc vương Bali – vua của các quỷ thần – đã từng đeo nó. Ồ, những sợi chỉ thiêng rakhi! Nguyện cầu cho anh / em không bao giờ nản lòng để bảo vệ những người đã hiến thân cho mình). Nhận được những lời chúc phúc và phó thác này, các tu mi nam tử sau đó chúc phúc và hứa sẽ trọn đời bảo vệ các chị / em gái (và cả vợ nữa) trong gia đình, sẽ cứu thoát những người phụ nữ thoát khỏi thế giới tội lỗi. Dĩ nhiên không chỉ là lời nói suông, mà các chàng phải trao một vài món quà nào đó cho các chị em gái trong gia đình (nếu đã có vợ thì tất nhiên là không quên cô ấy). Trong ngày này, các nàng tha hồ đòi hỏi quà cáp và buộc các đấng tu mi nam tử phải làm điều gì đó mình thích .

Lễ Raksha Bandhan có lai lịch và cách thức tiến hành như trên. Tuy nhiên, ngày nay xã hội Ấn Độ đã có những thay đổi, lễ Raksha Bandhan không chỉ là một ngày chúc tụng giữa các anh em ruột thịt với nhau, một ngày đoàn tụ gia đình, mà nó còn là một ngày lễ hứa hẹn bảo vệ lẫn nhau giữa những người khác nhau trong cuộc sống. Giới trẻ Ấn Độ ngày nay ví von lễ Raksha Bandhan là lễ Valentine thứ hai trong năm, ngày đó các chàng tha hồ mà hứa hẹn…

Đại học Delhi, Vu Lan &Raksha Bandhan Ất Dậu (19 Aug 2005) 

LÊ BÍCH SƠN

* Chân thành cảm ơn Nghiên cứu sinh Tiến sĩ chuyên ngành Sanskrit – Indra Deo Mishra – đã cung cấp những tài liệu và dịch nghĩa phần Hindi trong bài viết này!

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 10487)
Tập sách này in lại những bài viết về Trung Quán Luận, đã đăng trong Nguyệt San Phật Học. Ngài Long Thọ, tác giả Trung Quán Luận và những kinh sách khác, được chư thiền đức xưng tán là Đệ nhị Thích Ca, đã vạch ra thời kỳ chuyển pháp lần thứ hai. Trong những tác phẩm của người, Trung Quán Luận trình bày tánh Không, phần tinh túy của giáo lý đạo Phật.
08/04/2013(Xem: 15900)
Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một người. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như khả năng “chinh phục đối tượng”.
05/04/2013(Xem: 5102)
Đạo Phật có sứ mệnh đem ánh sáng của Trí Tuệ và Tình Thương đến với muôn loài chúng sanh. Ánh sáng của tinh tú, của mặt trời. mặt trăng giúp cho con người thoát khỏi cảnh tối tăm mờ mẫm ...
04/04/2013(Xem: 10346)
Phật giáo đã tồn tại và gắn liền với dân tộc Việt Nam hơn 20 thế kỷ. Trải qua những thăng trầm cùng lịch sử đất nước, các Phật tử và thiền sư không ngừng đóng góp cho kho tàng văn hóa Việt Nam một số lượng tư liệu quy mô đồ sộ, trong đó chứa đựng những tinh hoa trí tuệ của cả một dân tộc.
01/04/2013(Xem: 6443)
“ Đức Phật dạy chư tỳ kheo có bổn phận suy xét hằng ngày 4 điều: Ân đức Phật, rãi tâm từ, niệm sự chết và quán bất tịnh!”. Hành giả cần phải: Hành 14 giờ chính thức mỗi ngày bằng thiền, trong tư thế ngồi và đi ...
29/03/2013(Xem: 2886)
Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần,..v..v…. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả thật đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến Phật Giáo Việt Nam kể từ khi lập quốc (970) đến nay đã đóng góp rất lớn cho nền Văn Học Việt Nam qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần,..v..v…. nhưng không có một Quốc Sử Việt Nam nào ghi nhận cả thật đau buồn, mặc dù Phật Giáo Việt Nam thời bấy giờ và cho đến bây giờ không cần ai quan tâm đến. Phật Giáo Việt Nam nếu như không có công gì với núi sông thì đâu được Đinh Tiên Hoàng Đế phong Thiền sư Ngô Chân Lưu đến chức Khuông Việt Thái Sư vào năm Thái Bình thứ 2 (971) và chức Tăng Thống Phật Giáo Việt Nam. Cho đến các Thiền sư Pháp Thuận, Thiền sư Vạn Hạnh,..v..v….. là những bậc long tượng trong trụ cột quốc gia của thời bấy giờ, thế mà cũng không thấy một Quốc Sử Việt Nam nào ghi lại đậm nét những vết son cao quý của họ.
13/03/2013(Xem: 3108)
Tại sao người ta cứ phải nhắc đến cái nghèo khổ (bần cố nông) như một “giá trị”, “di sản” đáng tội nghiệp, nhằm phản ánh “chân lý”, “đạo đức xã hội” của lãnh tụ, trong khi những lời hô hào phải thoát nghèo, phải chống tham nhũng vẫn tỏ ra ít hiệu lực trước thực tế cuộc sống?
07/03/2013(Xem: 7993)
Không ít ngôi chùa hiện nay đang có chiều hướng “tư nhân hoá” dưới danh nghĩa trùng tu lại, xoá sạch dấu vết gắn bó một thời của người dân địa phương, trở thành sở hữu riêng của vị trụ trì và một số đại gia có tiền bạc và quyền thế. Văn hoá Phật giáo Việt Nam sẽ hội nhập như thế nào với thế giới? Phật giáo Việt Nam sẽ đưa hình ảnh gì của mình ra bên ngoài? Những câu hỏi này được đặt ra từ lâu trước thực tế các quốc gia, dân tộc, tôn giáo trên thế giới đang ngày càng có nhiều hoạt động thúc đẩy quảng bá cho sức mạnh mềm văn hoá.
20/02/2013(Xem: 4387)
Bertrand Arthur William Russell (1872-1970) là một triết gia, nhà lôgic học, nhà toán học người Anh của thế kỷ 20. Ông sinh trưởng trong một thời đại vừa có nhiều thành tựu rực rỡ từ những phát kiến khoa học kĩ thuật đi đôi với nhận thức ngày càng phong phú và vượt bậc của con người, vừa nhuốm màu đen tối thê lương từ hai cuộc đại thế chiến, bầu khí tôn giáo nặng nề, thảm trạng bất công và nghèo đói…
25/10/2012(Xem: 6634)
Không phải ngẫu nhiên ngày nay Phật giáo được nhân loại tôn vinh là một trong những tôn giáo có một triết lý sống nhân văn và thiết thực nhất. Cụ thể, đạo Phật là tôn giáo xuất phát từ hiện thực con người và vì con người, nhằm hướng con người đi đến hạnh phúc an lạc. Sở dĩ được tôn vinh như vậy là do toàn bộ giáo lý của Đức Phật thể hiện một nếp sống đạo đức có những đặc trưng riêng biệt, nổi bật mà khi chúng ta trải nghiệm sẽ nhận chân được các giá trị hạnh phúc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567