Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ý nghĩa các tên gọi của ngôi chùa dưới góc độ ngôn ngữ văn hóa

17/09/201016:19(Xem: 4206)
Ý nghĩa các tên gọi của ngôi chùa dưới góc độ ngôn ngữ văn hóa

Ngôi chùa từ lâu đã hiện hữu vàgắn bó thiết thân trong mỗi chúng ta. Khắp nơi nơi trên cả nước, đâu đâucũngcó chùa, lớn có, nhỏ có, kim có, cổ có, tất cả đã trở thành một phần không thểtách rời trong cộng đồng làng xã Việt Nam.

Về tên gọi Chùa hầu như đềuthống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhàlàm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú trên địa bànnhất định. (Phải chăng cũng vì thế mà trong ngôn ngữ của chúng ta xuất hiện nhữngtừ rất “Việt” là… chùa, để chỉ tài sản hay sức lực không của riêng ai cả, muốntiêu pha thế nào không ai cấm, không ai tiếc, như: của chùa, công chùa, tiềnchùa?...). Bên cạnh cái tên Chùa thuần Việt chất phác ấy thì còn nhiều mỹ từgốc Hán khác như Tự, Già lam cũng thông dụng không kém để chỉ ngôi chùa trongtiếng Việt. Dưới đây chúng ta lần lượt tìm hiểu vì sao những từ được dùng đểchỉ kiến trúc nhà có chức năng thờ Phật.

Trước hết là Tự (寺): Ngày nay chữ này được dùng đứng sau làm thành tố chính(trung tâm ngữ) để kết hợp với một từ định danh nào đó (định ngữ) tạo thành mộtcụm danh từ nêu tên gọi một ngôi chùa cụ thể, như Trấn Quốc Tự, Kim Liêntự,Bửu Lâm tự, Vĩnh Nghiêm Tự… Và như vậy, ai cũng hiểu, Tự nghĩa là chùa. Nhưngtrong ngôn ngữ Trung Quốc cổ đại thì nghĩa của Tự không phải là chùa. VìPhậtgiáo mới tiến nhập Trung Quốc từ đầu Công Nguyên, trong khi chữ Hán thì đã cósớm hơn rất nhiều. Tự vốn là từ để chỉ cơ quan làm việc cụ thể của bộ máy chínhquyền phong kiến. Sách Hán thư chú: Phàm phủ đình sở tại giai vị chi tự (nóichung nơi làm việc của phủ đình đều gọi là Tự). Khang Hy tự điển chú khárõđiều này: Hán dĩ Thái thường, Quang lộc, Huân vệ úy, Thái bộc, Đình úy, Đạihồng lô, Tông chính, Tư nông, Thiếu phủ vi cửu khanh. Hậu nguy dĩ lai danh tuynhưng cửu nhi sở lị chi cục vị chi Tự. Nhân danh Cửu tự (đời Hán lấy Tháithường, Quang lộc, Huân vệ úy, Thái bộc, Đình úy, Đại hồng lô, Tông chính, Tưnông, Thiếu phủ làm Cửu khanh. Nguy trở về sau tuy vẫn để như cũ nhưng các sởcục thì gọi là Tự. Vì vậy mà thành tên Cửu tự [thay cho Cửu Khanh]).

Vậy tại sao từ Tự chỉ một sở cục cụthể được chuyển hẳnsang nghĩa là chùa? Đây là nguyên nhân lịch sử, đánh dấu mốc đầu tiên tronglịch sử Phật giáo Trung Quốc. Hán Minh Đế Lưu Trang (25-75) là vị vua đầu tiênthừa nhận địa vị của phật giáo ở Trung Quốc. Tương truyền nhà vua nằm mộng thấy“người vàng” bay qua sân điện, bèn sai sứ giả 12 người do Lang Trung Thái Âmdẫn đầu sang Tây Trúc cầu tìm đạo phật. Đó là sự kiện năm Vĩnh Bình 7 (64). Banăm sau (67), sứ giả về với hai tăng nhân người Ấn Độ cùng rất nhiều kinh sáchvà tượng phật được thồ trên lưng ngựa trắng. Lúc các tăng nhân cùng kinh,tượng, về đến kinh đô, triều đình chưa chuẩn bị kịp chỗ ở riêng nên cho ởtạmtrong Hồng lô tự (một cơ quan trong Cửu khanh). Sau đó nhà vua mới cho xây dựngcái mà chúng ta gọi là chùa để thờ Phật và các tăng nhân tu tập. Kiến trúc xâydựng theo kiểu mẫu dinh thự của quý tộc đương thời. Sau đó chùa được xâydựngngày càng nhiều cũng theo kiểu mẫu nhà ở của địa phương. Chính vì vậy màchùa ởTrung Quốc, và cả ở Việt Nam khi tiếp nhận Phật giáo theo hướng Trung Quốc, cókiểu chùa rất riêng, không theo quy chuẩn mái cong tháp nhọn như nơi Phật giáophát nguyên. Nhân vì kinh và tượng Phật được thồ về trên lưng ngựa trắngnênđặt tên chùa là Bạch Mã. Tự là chỗ đầu tiên tăng nhân tạm trú khi đến TrungQuốc nên được chuyển sang làm thành tố chính để gọi tên cho ngôi chùa: Bạch MãTự, ngôi chùa phật giáo đầu tiên của Trung Quốc.

Già lam 伽藍: cũng là tên gọi của ngôi chùa. Đây không phải là tên cónguồn gốc biến đổi như Tự trên kia. Già lam là tên gọi tắt của Tăng già lam ma(Sangharama). Tăng già là một nhóm tăng nhân đi Hoằng pháp, thường từ bốn ngườitrở lên. Tăng già lam ma 僧伽藍:là nơi ở của các tăng nhân để tu hành, sau chỉ chungkiến trúc ngôi chùa. Như vậy, già lam ở đây nghĩa như Tự. Nhưng theo tàiliệubằng chữ Hán của Tuần phủ Hà Nam-hiệp biện đại học sĩ Mai Viên Đoàn Triển(1854- 1919) trong An Nam phong tục sách thì Già lam chỉ là chùa nhỏ. Nguyênvăn như sau: Tự dĩ Phụng phật, xã dân giai hữu chi (…). Hữu chung lâu, hữu cổlâu, quy chế đa hữu hậu viện vi Tăng ni trụ trì sở. Sóc vọng hiến cung niệmPhật tụng kinh. Diệc hữu Tiểu tự, vô Tăng ni, hữu Thủ tự nhất nhân, hương hoađăng cung lễ, vị chi già lam. (Chùa để thờ Phật, xã dân nào cũng có). Cólầuchuông, có lầu trống, quy chế (thờ tự, cúng tế) nhiều hơn đình, miếu; cótăngni và tháp mộ, có hậu viện làm nơi ở cho trụ trì và Tăng ni. Ngày rằm mùng mộtcúng cúng hoa quả và niệm Phật tụng kinh. Cũng có chùa nhỏ (tiểu tự), không cótăng ni có một người giữ chùa (Thủ tự, ông Tự) để dâng hương, thắp đèn lễ cúng,gọi là Già lam). Theo ý kiến của ông Đoàn Triển ở sách trên thì Già lam chỉ làngôi chùa nhỏ, không có quy mô tổ chức và kiến trúc như chùa. Nhưng theocáctài liệu phật giáo cũng có những ngôi chùa cụ thể được gọi là Già lam, như ngôiGià lam- Cổ tự ở Phụng Hiệp (Hậu Giang) thì quy mô tổ chức cũng như quầnthểkiến trúc không nhỏ chút nào, nếu không muốn nói là có phần diễm lệ.

Thế nào gọi là Chùa? Vì sao nó chỉ kiến trúc ngôi nhà thờPhật? Điều chắc hẳn ai cũng thừa nhận chùa là tên gọi thuần của người Việt. Đểtìm hiểu nghĩa của chữ Chùa chúng ta cần tìm hiểu chức năng của ngôi chùa. Chùalà nơi thờ Phật, chốn linh thiêng, thanh tịnh, là nơi mỗi tháng hai lần các Phậttử dâng hương hoa trà quả để lễ Phật. Lễ vật cúng Chùa thường là những hằng sảnđịa phương, được đem lên tế lễ rồi chẩn phát, cứu tế luôn cho những người nghèokhó. Như vậy ý nghĩa nhân văn của ngôi chùa truyền thống rất lớn: là nơiđểngười giàu san sẻ, người khó tựa nương. Đây cũng là một trong những tôn chỉquan trọng mà nhà chùa hiện nay đang thực hiện. Truy về nguồn gốc chữ Chùakhông đâu hơn là dựa vào mã chữ Nôm. Trong chữ Nôm, Chùa được ghi bằng Trù. Ngữâm lịch sử đã chứng minh: /ch/ là âm trước của /tr/ khi người Việt đọc chữ Hán.Chùa là âm tiền Hán Việt của Trù, nó nằm trong hệ thống ch > tr, như chén> trản, chém > trảm, chọn > trạch, chèo > trạo, chầy > trì, chay> trai, chứa > trữ... Trù có nghĩa là bếp, tiếng Hán hiện đại, trùphòngcó nghĩa là nhà bếp, nơi ấm áp, yên bình trong mỗi gia đình. Suy rộng raxãhội, nơi ấm áp, yên bình nhất chính là ngôi chùa. Chùa là nơi người ta được sansẻ, được thỏa nguyện về cả vật chất lẫn tinh thần. Ý nghĩa từ ngữ thật cao đẹpbiết bao!

Trong tiếng việt ta còn có chữ chùachiền để chỉ chung vềnhững thắng cảnh Phật giáo. Vậy Chiền là gì? Nó là từ có yếu tố độc lập hay làyếu tố láy của từ chùa? Thực ra nó xuất phát từ âm Triền: chỗ ở của người dânnói chung. Cũng như chùa, Chiền là âm tiếng Hán Việt của Triền Hán Việt.Nhưvậy đây là một từ ghép đẳng lập của người Việt để chỉ thắng cảnh Phật giáo nóichung. Trong đó, Chùa là yếu tố trung tâm tương đương với nó chính là Tự. Còntiếng Hán tương đương với chùa chiền không phải là Tự mà là Sát. Sát là âm đượcphiên âm từ tiếng Phạn, là chùa nói chung, từ Hán Việt có các từ như: Cổsát:chùa cổ, Bảo sát danh sơn: thắng cảnh núi non có chùa…

Qua đây có thể thấy cha ông chúng ta đã biết tiếng Việthóa cao độ các thuật ngữ Phật giáo để làm giàu cho tiếng Việt. Tuy là vay mượnnhưng dấu vết hầu như mất hẳn vì nó thấm nhuần tư duy nhân văn của ngườiViệt.

Bên cạnh một số tên gọi đã ăn sâu vào ngôn ngữ Việt khichỉ về ngôi chùa như trên, thì cũng còn nhiều từ khác dùng phổ biến ở TrungQuốc mà khi nhắc tới ta đều biết nó chỉ ngôi chùa, như: Phật sát, Phật điện,Phật đường, Phật khám, Phật tự, Tăng phòng, Tăng viện, Tăng xá, Thiềngià, Thiền trai, Thiền xá, Tự môn, Tự quán, Tự viện…Đó là do quá trình tiếp xúclâu dài,thường xuyên với tiếng Hán. Tất cả các từ trên đều có thể dịch là Chùa.Trong các từ trên, yếu tố đầu: Phật, Tăng, Thiền là thuật ngữ Phật giáo;Tự làchùa đã nói ở trên. Yếu tố sau là những kiến trúc nhà khác nhau trong tiếngHán. Nó góp phần định danh tường minh hơn cho ngôi chùa cụ thể.

Tổng quan lại có thể thấy nghĩa của các từ chùa chỉ vềngôi chùa luôn gắn bó mật thiết với ngôi nhà của chúng ta. Chính vì vậy mà tưtên gọi đã toát lên vẻ ấm áp, thân thương và gần gũi, mang đậm tư duy Phật giáoÁ Đông

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/03/2013(Xem: 8797)
Không ít ngôi chùa hiện nay đang có chiều hướng “tư nhân hoá” dưới danh nghĩa trùng tu lại, xoá sạch dấu vết gắn bó một thời của người dân địa phương, trở thành sở hữu riêng của vị trụ trì và một số đại gia có tiền bạc và quyền thế. Văn hoá Phật giáo Việt Nam sẽ hội nhập như thế nào với thế giới? Phật giáo Việt Nam sẽ đưa hình ảnh gì của mình ra bên ngoài? Những câu hỏi này được đặt ra từ lâu trước thực tế các quốc gia, dân tộc, tôn giáo trên thế giới đang ngày càng có nhiều hoạt động thúc đẩy quảng bá cho sức mạnh mềm văn hoá.
20/02/2013(Xem: 5146)
Bertrand Arthur William Russell (1872-1970) là một triết gia, nhà lôgic học, nhà toán học người Anh của thế kỷ 20. Ông sinh trưởng trong một thời đại vừa có nhiều thành tựu rực rỡ từ những phát kiến khoa học kĩ thuật đi đôi với nhận thức ngày càng phong phú và vượt bậc của con người, vừa nhuốm màu đen tối thê lương từ hai cuộc đại thế chiến, bầu khí tôn giáo nặng nề, thảm trạng bất công và nghèo đói…
25/10/2012(Xem: 7178)
Không phải ngẫu nhiên ngày nay Phật giáo được nhân loại tôn vinh là một trong những tôn giáo có một triết lý sống nhân văn và thiết thực nhất. Cụ thể, đạo Phật là tôn giáo xuất phát từ hiện thực con người và vì con người, nhằm hướng con người đi đến hạnh phúc an lạc. Sở dĩ được tôn vinh như vậy là do toàn bộ giáo lý của Đức Phật thể hiện một nếp sống đạo đức có những đặc trưng riêng biệt, nổi bật mà khi chúng ta trải nghiệm sẽ nhận chân được các giá trị hạnh phúc.
02/08/2012(Xem: 16506)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
05/06/2012(Xem: 35196)
Mới đây theo công trình nghiên cứu của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân người châu Á. Đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh Mahatma Gandhi (1869 - 1948) và một vị hiện sống là Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (1935-?). Vâng, Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay được nhiều nơi trên thế giới công nhận là một hóa thân Quan Âm và một bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại
31/05/2012(Xem: 6325)
Chính Đức Phật đã quy chuẩn cách dùng ngôn ngữ hay tiếng nói địa phương trong việc truyền đạt giáo lý... Thích Nhuận Châu dịch
18/04/2012(Xem: 5426)
Tối nay tôi được yêu cầu để nó về sự phân biệt Phật Pháp, giáo lý của Đức Phật, với văn hóa Á châu hay văn hóa Tây Tạng. Đây là một câu hỏi rất quan trọng, một cách đặc biệt nếu chúng ta đang hoạt động để làm lợi ích cho người khác. Thí dụ, chính chúng ta có thể bị quyến rũ với văn hóa Tây Tạng hay Á châu một cách tổng quát và thích như thế; nhưng nếu chúng ta muốn hổ trợ người khác và dạy họ về giáo lý nhà Phật, thì nó có lợi lạc cho họ không? Tôi nghĩ đấy thật sự là vấn đề, có phải không? Và giống như chúng ta có thể có và có thể không thích những khía cạnh của văn hóa Tây Tạng, tương tự họ sẽ là những người mà chúng ta cố gắng để giúp đở mà cũng có thể thích hay không thích? Do thế chúng ta cần uyển chuyển trong dạng thức của việc hành động với người khác, hổ trợ người khác. Quý vị có khuyến khích họ đốt đèn bơ hay treo những lá cờ cầu nguyện, những loại như thế ấy không, hay có phải có điều gì đó sẽ làm cho họ quay lưng với Phật Giáo, được dập tắt không? Do vậy có hai sự cân nhắc
04/03/2012(Xem: 52935)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (tập 4), mục lục: Sắc đẹp hoa sen Chuyện hai mẹ con cùng lấy một chồng Cảm hóa cô dâu hư Bậc Chiến Thắng Bất Diệt - Bạn của ta, giờ ở đâu? Đặc tính của biển lớn Người đàn tín hộ trì tối thượng Một doanh gia thành đạt Đức hạnh nhẫn nhục của tỳ-khưu Punna (Phú-lâu-na) Một nghệ sĩ kỳ lạ Vị Thánh trong bụng cá Những câu hỏi vớ vẩn Rahula ngủ trong phòng vệ sinh Voi, lừa và đa đa Tấm gương học tập của Rahula Bài học của nai tơ Cô thị nữ lưng gù
17/02/2012(Xem: 3829)
Nguyễn Du cho chúng ta thấy rằng Cụ không những là một người am hiểu sâu xa về Phật giáo mà còn là một hành giả tu tập Thiền tông qua Kinh Kim Cương... Đại Lãn
24/01/2012(Xem: 13555)
Vănhọc Phật giáo nói chung, văn học Phật giáo Việt Nam nói riêng dứt khoát phải thể hiện giáo lý nhà Phật, mà cụ thể là thểhiện vấn đề về bản thể luận, về giải thoát luận và những con đường tu chứng. Để biểu lộ nội dung trên, văn học Phật giáo phải có một nghệ thuật tương xứng. Ở bài viết này sẽ đề cậpmấy nét đặc sắc về nghệ thuật của văn học Phật giáo. Khi trình bày vấn đề, chúng tôi chọn văn học Phật giáo Lý-Trần đểminh họa, bởi lẽ văn học Phật giáo Lý- Trần là kết tinh của những tinh hoa văn học Phật giáo Việt Nam.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]