Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chân nghĩa của Phật Giáo Nhân sinh.

09/04/201314:12(Xem: 4867)
Chân nghĩa của Phật Giáo Nhân sinh.

CHÂN NGHĨA CỦA
PHẬT GIÁO NHÂN SINH

Cần Dũng
Thích Nữ Nguyên Liên dịch

(Lưu học sinh Trung Quốc)

---o0o---

Phật Giáo Nhân Sinh là đề tài do Thái Hư Ðại Sư đưa ra mấy năm trước ngày Người tịch diệt. Trong thời gian Ngài chưa đề cập đến vấn đề này, bắt đầu từ năm dân quốc thứ 17, từ bản thân mình, Ngài đã biểu hiện như là một tấm gương tốt về Phật học nhân sinh. Nhìn chung, suốt một đời, ngoài việc nghiên cứu tinh thâm Phật pháp, dung quán thế học, tích cực đề xướng tinh thần cải cách Tăng chế ra, tinh thần và trí lực của Ðại Sư còn dùng cho những vấn đề về Phật giáo nhân sinh. Vì thế có thể thấy Ðại Sư là người hết sức quan tâm chú trọng đến vấn đề nhân sinh, cũng từ đó chúng ta thấy rõ sự quan hệ mật thiết giữa Phật giáo và nhân sinh. Trong hệ thống tư tưởng của Ðại Sư, ý chỉ hiển thích của vấn đề này trước sau đều nhất quán. Hơn nữa, đối với tinh nghĩa của Phật giáo nhân sinh, Ngài càng giải thích thì sự thể nhận của Ngài càng sâu sắc, cho nên trước khi thị tịch mấy năm, Ngài đã nói đến vấn đề này một cách cụ thể hơn, tinh tường hơn và cũng nhờ thế mà giờ đây tôi mới trực tiếp viết được về vấn đề Phật giáo nhân sinh.

Phật giáo noùi đến hai danh từ chúng sanh và nhân sinh có chỗ rộng, có chỗ hẹp. Theo nghĩa rộng là nói đến tất cả loài hữu tình trong lục đạo, mọi người đều có thể gọi là chúng sanh, ví dụ nói: “lục đạo chúng sanh”, theo nghĩa hẹp laø nói đến con người trong nhân loại, tức nhân sinh. Trời người trong cõi sắc giới tuy có hình người nhưng không được gọi là nhân sinh, vì họ là chúng sanh thuộc về thiên đạo. Tứ Thánh là người nhưng không thể xem họ là người bình thường, vì họ đã hoàn thành viên mãn tính cách của các bậc thánh, hoàn toàn không giống với hạng phàm phu hiện tại đang bị sa lầy chìm đắm trong biển sanh tử.

Như vậy, từ địa ngục, tầng thấp nhất trong thập bát giới ngược trở lên, địa vị con người may mắn nằm ở giữa, hướng lên có thể tiến đến cõi trời cho đến pháp giới tứ thánh, hướng xuống thì đọa vào bốn cảnh giới ác pháp. Con người là chủ thể thăng giáng của thiện ác, vì thế giá trị hành vi của nhân sinh là cực kỳ quan trọng. Tôi thường nghe người học Phật tự mình gọi chúng sanh, cảm giác dường như có chút gì đó quá rộng lớn, chi bằng cứ trực tiếp gọi cái ngã là con người thì thích đáng hơn. Chúng ta cần phải luôn xem mình là cá nhân mới có thể tâm tâm niệm niệm nghĩ rằng làm người là sự việc nên làm. Nếu không như vậy thì việc quán chúng sanh trên mặt ý thức phàm phu và chúng sanh trên vị thế tứ thánh sẽ có chỗ không tương thông. Khi chúng ta tự gọi là chúng sanh tức tự khinh thường thân phận mình, hoặc có thể ngu muội đến nổi khi trong đầu hiện hành bốn loại chúng sanh ác mà vẫn không biết. Có một số người tuy nói đang tu học Phật pháp mà thật sự chẳng tu hành gì cả, những người ấy được gọi là hữu danh vô thực, kết quả rơi vào cảnh giới si mê, đó gọi là người mê nói lời mộng. Lý lẽ này tuy nông cạn nhưng từ trước đến nay không hề được ai chú ý, cho nên ngày nay tôi muốn đề cập đến. Phật giáo ra đời là để phổ độ chúng sanh, ngày nay sao lại nói đến Phật giáo nhân sinh? Tôn chỉ của Phật giáo rõ ràng đã kiến lập trên tinh thần phổ độ chuùng sanh, nhưng trên mặt sự tướng mà nói, bất luận làm việc gì đều có sự trước sau, khinh trọng của nó. Nếu khinh trọng bị đảo ngược, trước sau không có trật tự sẽ làm mất đi ý nghĩa đặc thù của sự việc. Phật giáo hóa độ thế gian cũng không thể rời khỏi định luật này, trước độ nhân loại, kế đến độ chúng sanh, đó là hạn chế trong thực tế. Vì vậy tôi cho rằng trình bày rõ chân ý nghĩa của Phật giáo nhân sinh là một bước tối quan trọng trong việc phổ độ chúng sanh. Yù nghĩa này chúng ta sẽ bàn đến dưới đây.

Trước đây thường nói: địa ngục thống khổ, cõi trời khoái lạc, chỉ có nhân gian là không quá vui, không quá khổ, cho nên chúng sanh dễ dàng tu hành. Trên thực tế nhân loại thọ nhận năm dục lạc có lẽ không sánh được với người của cõi trời dục giới nhưng lại nhận chịu khổ đau gần như cảnh giới địa ngục. Sự thống khổ của nhân dân ở các quốc gia không bình thường thật sự rất thảm thương, sự khổ đau này là do thân tâm bức bách. Nghe đến cái khổ mà chúng sanh trong cảnh địa ngục thọ chịu trên thân thể đã làm chúng ta sợ hãi rồi, nhưng vì thọ khổ quá nhiều, có lúc tinh thần còn ở trong trạng thái sầu muộn tối tăm. Nhưng ở con người, tình cảm, ý chí, sự tưởng tượng và sức tranh luận rất phong phú, bén nhạy, sôi nổi, một ngày nào đó nếu bị sự công kích nghiêm khốc của ngoại cảnh, lúc đó sự thống khổ của thân thể vốn đã không tiêu mất nay cộng thêm sự khổ đau trong nội tâm càng làm cho con người khó chịu đựng hơn. Trong kinh thường nói đến việcBồ tát vì chúng sanh đau khổ mà phát tâm, là nói đến cái khổ tổng hợp của nhân loại và của chúng sanh . Tức là muốn nói với con người rằng: điều thống khổ nhất của thế giới hiện tại là ở con người, và con người muốn ra khỏi đau khổ thì điều đặc biệt khẩn thiết là phải có tâm nhàm chaùn đau khổ đó. Ðức Thế Tôn khi mới thành xong Vô Thượng Ðẳng Giác, đối tượng đầu tiên để Ngài thuyết pháp là con người, đến khi Ngài thị hiện Niết Bàn tại Ta La Song Thọ, đối tượng cuối cùng để Ngài thuyết pháp cũng là con người, điều đó chứng minh Ðức Phật vốn luôn xem trọng nhân sinh. Nếu chúng ta coi thường vấn đề nhân sinh, hướng tầm mắt đến thế giới khác là chúng ta đã xa rời thưc tế. Mặc khác, trên thực tế, chúng ta còn phải có tình cảm tốt đẹp đối với những tín đồ tôn giáo khác, không nên phân biệt. Có mộtsố người vì nội lực và ý chí quá yếu, tự xem mình quá nhỏ bé, luôn muốn buông bỏ tất cả các sự kiện xảy ra trong cuộc sống, tránh né hiện thực, tầm nhìn của họ luôn hạn chế, thường không dám nhìn thẳng vào hiện thực nhân gian, tinh thần nhân sinh quan đơn độc, như vậy họ sẽ làm được gì cho nhân sinh? Người học Phật phải có khí phách, có sức sống, có chí tiến thủ và sáng tạo. Có thể nói đây là những vấn đề mà những người tu Phật hiện nay cần đặc biệt quan tâm. Chúng ta cần mở rộng tầm mắt nhìn thẳng vào hiện thựcnhân sinh, nếu không như vậy, nhãn quan của thời đại, quan điểm của thời đại sẽ tập trung để quan sát lại chúng ta; nếu chúng ta không thiết lập một phương thức ứng phó hữu hiệu thì nhất định sẽ bị nhân loại, bị xã hội đào thải.

Phật giáo xem trọng nhất là quan hệ giữa con người với thế gian, nếu bỏ vấn đề loài người sang một bên, không nói đến con người tức chúng ta không có pháp gì để nói rõ về những vấn đề của thế gian. Chỉ có con người mới có thể xử lý được thế giới này, mối an nguy của thế giới đều do con người tạo ra. Tiến lên một bước, tôi muốn nói đến việc con người có thể sáng tạo vũ trụ, đồng thời cũng có thể hủy diệt vũ trụ, điều này hoàn toàn khác với thuyết các vị thần tạo ra vũ trụ. Thần tạo ra vũ trụ là truyền thuyết vô căn cứ, nhưng con người có thể sáng tạo hoặc hủy diệt vũ trụ quả là một sự thật. Như hiện tại con người kinh sợ uy lực của bom nguyên tử vì nó đủ sức hủy diệt thế giới và thế giới đã đưa ra lời kêu gọi cấm sử dụng nguyên tử hạt nhân. Ngược lại, trên mặt sản xuất, năng lượng của tính năng nguyên tử cũng có thể dễ dàng tạo ra cho nhân loại một thế giới văn minh cao độ với sự khiêm nhươøng tốt đẹp, những thành tựu khoa học kỹ thuật đưa đến cuộc sống đầy đủ về vật chất, cơm no, áo ấm, v.v... Ðó là chứng cứ hiển thị cụ thể về năng lực của con người. Năng lực của con người quả thật rất lớn, nhưng để sử dụng nó một cách thích đáng thì cần phải học với các bậc Thánh hiền. Con người, với năng lực ấy thì việc thành Tổ, thành Phật chẳng phải là những việc khó khăn. Nếu chúng ta không làm được như vậy thì chúng ta quả là đã đi ngược lại với luân lý làm người.

Làm người, những việc không tốt thì không nên làm, cho nên Phật giáo trước tiên chủ trương cải thiện cá nhân sau đó tiến đến tịnh hóa nhân loại rồi mới đối trị nhân gian, tất cả những vấn đề khác nhau này tạo thành một số mắt xích nối thành một chuỗi, chuỗi mắt xích này lại không tách rời được con người,. Ðức Phật vì chú trọng giá trị hành vi của nhân loại, nên đặc biệt kiến lập chánh pháp nhân thừa tam quy, ngũ giới, thập thiện để hạn chế con người đi vào chỗ bất thiện. Suy xét đến vô lượng pháp môn không có pháp môn nào mà không nhắm đến nhân loại và để nói với nhân loại. Trong kinh ghi rằng khi Ðức Phật thuyết pháp viên mãn, thường thường cóvô số cư sĩ tại gia chứng được vô sanh pháp nhẫn; một số Tỳ Kheo đắc pháp nhãn tịnh, hoặc nói vô lượng thiên nhơn được hóa độ, có lúc cũng nói vô lượng chúng sanh được nhiều lơïi ích, điều này rõ ràng biểu thị Ðức Phật thuyết pháp có rộng hẹp tùy theo căn cơ ø. Trên mặt thật thể và thật nghĩa mà luận: đương cơ chúng để Phật giáo hóa độ chính là con người, cho nên Phật giáo thuộc về nhân loại (chúng đương cơ là chỉ cho người có nhân duyên thuần thục, vừa nghe giáo pháp liền có thể đắc được đạo quả. Ðại chúng nghe pháp có thể phân làm bốn loại, đương cơ chúng là một trong bốn loại đó). Ðại Sư nói: “thật tức thuyết pháp của Phật Ðà, động cơ đó rất rộng, phổ cập tất cả chúng sanh, và đối tượng trung tâm của việc thuyết pháp vẫn là nhân loại chúng sanh, cho nên cái thật của Phật pháp là Phật pháp của chúng sanh nhân loại, tất cả lý lẽ đạo đức, học thuyết mà Ðức Phật nói đều không xa rời được nhân gian”. Ngài lại nói “Phật pháp tuy không có sự tồn vong và sanh tử, nhưng dùng nhân sinh hóa hiện thực mà thích ứng hiện tại, lấy sự phát triển tồn vong của nhân loại làm trung tâm, phát khởi nghĩa Phật học khế thời khế cơ là đệ nhất nghĩa của Phật học nhân sinh”. Vấn đề nhân sinh chính là vấn đề của các sự việc con người, con người phải vì mình mà làm việc cống hiến, cũng phải vì người mà làm việc cống hiến, như vậy dưỡng thành thói quen mỹ đức liên quần và quan niệm phục vụ “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, như vậy tất cả sự việc đều có thể chung cùng thiết chế vaø giải quyết, cho nên nói Phật giáo nhân sinh là phá trừ cái ngã sở hữu, làm tiêu mất tâm lý biếng lười, tuyệt đối không tán đồng tâm lý chán ghét thế gian đi tìm sự ẩn dật ngao du ở nơi núi rừng. Phật giáo vốn xem moái liên hệ giữa cá nhân con người, nhân loại cùng nhân gian là một thể thống nhất. Hiểu được chân nghĩa của Phật giáo nhân sinh, tuy tự mình nhẫn chịu sự thống khổ của mọi người vẫn phải phấn chấn ý chí để vì mọi người loại bỏ hoạn nạn, giải trừ gian nan. Chúng ta không chấp thủ nó là ta, là cái của ta, con người tuyệt đối không nên vọng chấp vào bất cứ một điều gì, nên dưỡng thành thói quen làm việc gì cũng chí công vô tư, không coù tâm niệm mong đợi vào sự cảm ân báo đức. Như vậy, chúng ta đã thấy sự phát khởi Phật giáo nhân sinh quan trọng đến thế nào và nếu như buông bỏ nó thì sẽ ra sao...

Vẫn còn một số điều quan trọng không thể không biết đeán, một là nếu người đặt nặng vào việc tu tập trí tuệ mà thiếu lòng từ bi sẽ tự mình rơi vào cảnh giới nhị thừa tiêu cực. Hai là người xem trọng việc thiện lành ở đời mà thiếu trí tuệ, đó là tiến thối vào thiên nhân thừa. Thứ ba, người hung bạo tạo ác nghiệp, thiếu hành thiện sẽ ra vào chìm nổi trong biển khổ không có ngày ra. Phật giáo nhân sanh là để đối trị ba điều thiên lệch tai hại này. Theo Ðại Sư, hàm ý của nhân sanh được giaûi thích như sau: 1. Một đời của con người. 2. Trong tất cả chúng sanh hữu tình bao gồm nhân loại và phi nhân loại. Như vậy không thể loại bỏ tất cả hữu tình để chỉ chuyên bàn về vấn đề nhân sinh. Từ trên cho thấy, nếu thu hẹp phạm vi nhân sinh thì chỉ nói đến cá nhân; nếu nói rộng ra thì nó hàm chứa, thâu nhiếp toàn bộ nhân loại thế giới và tất cả chúng hữu tình không bỏ sót một ai. Như vậy chúng ta có thể thấy nội dung Phật giáo nhân sinh vô cùng rộng lớn và phong phú, bao hàm tất cả những vấn đề mà Phật giáo nêu ra để thảo luận. Trong đó có một điểm đáng được chúng ta chú ý nhất đó là muốn giải quyết tất cả vấn đề thì trước tiên phải bắt đầu từ vấn đề nhân sinh, nếu không, bất cứ vấn đề nào cũng đều không giải quyết được. Như vậy, vấn đề nhân sinh rõ ràng là vấn đề chiếm khối lượng lớn nhất trong các vấn đề.

Mặt khác, giữa cá nhân và nhân loại còn có vô số quan hệ trùng trùng điệp điệp, tầng tầnglớp lớp. Trong mạng lưới quan hệ này, người đối với người chỉ cho phép bện móc đan thắc vào nhau như những cuộn tơ, chẳng cho phép vì hiềm nghi không vừa ý mà cắt xé mối quan hệ đan thắc này. Hành giả thực hành đúng với tư tưởng Ðại thừa thì không nghĩ đến việc cắt đứt quan hệ bình thường giữa người với người, mà ngược lại phải thường xuyên làm cho các mối quan hệ đó sâu sắc thêm; không những không chấp nhận phá bỏ mà còn phải đưa nó trở về với chính mình. Hiểu rõ lý lẽ này chúng ta mới có thể tạo được các mối quan hệ tốt để đối đãi với nhau, không phải chỉ nghĩ cho riêng mình. Thế giới văn minh, nhaân loại tiến hóa, xã hội trật tự... tất cả đều đến từ trong quan hệ được điều chỉnh tốt đẹp giữa người với nhau. Chúng ta đã sống trong mạng lưới quan hệ thì nên đem hết lòng chân thật để làm người, dùng hết sức mình để làm việc tốt, làm người tốt. Những việc này mới nhìn tưởng chừng như dễ dàng bình thường, nhưng thật sự đó là một công phu cơ bản phải được đảm đương bằng sức lực và tâm lực, nghiêng nặng về mặt dụng tâm và nếu vận dụng không khéo sẽ rơi vào trường họp:“sai một li đi một dặm”, đây là điểm đặc biệt cần chú ý của người học Phật.

Người vì thể diện che dấu khuyết điểm, đây dường như chỉ là cá nhân tự xem mình là người, nhìn người khác cũng là người, xem mình và người như nhau, dùng phương thức hợp lý để phán xét mình và người, để mọi người trong mặt sinh lý đều sống với sự thể hiện hòa nhã vui vẻ. Ðiều này dường như giống với tư tưởng thân cận gần guĩ đưa đến yêu thương dân, thương yêu dân đi đến yêu thương vật của Nho gia, nhưng một bên là quán về ân nghĩa rất có khuôn phép chừng mực, một bên là quán về tính đồng thể như nhau vốn không có sai biệt của pháp giới chuùng sanh. Là người thì phải ứng xử tốt với nhau, đối với mọi việc và mọi vật cũng cần có thái độ xử lý tốt. Sở dĩ Phật giáo xem nhân sinh quan trọng như vậy vì việc mà nhân loại cần đối diện chính là thế giới hiện thưïc của mọi sự mọi việc. Con người luôn muốn khống chế tự nhiên, áp bức chúng sanh khác (động vật và loài người), tạo nên sự bất ổn định cho cuộc sống. Cấm sát sanh, một trong những nguyên tắc đạo đức của Phật giáo, laø để bảo hộ sự sống triệt để, việc đề xướng đạo đức nhân thừa như ngũ giới, thập thiện cũng là để phát huy tinh thần này. Nếu đạo đức nhân thừa được phát huy rộng rãi, tự nhiên nhân loại sẽ có hành vi đạo đức tốt đối vớimuôn loài. Tuy nói: “tâm - Phật - chúng sanh, tam vô sai biệt”, nhưng giả sử chúng ta khuyết thiếu đi đức tính trí năng tương đối thì không thể cống hiến được gì cho nhân loại, cũng không làm được gì có lợi ích cho chuùng sanh, nếu có nói đến việc cống hiến thì cũng chỉ là nói suông, nói lời viển vông, không bổ ích cho thực tế. Phật giáo nhân sinh tuy là lấy nhân loại làm đối tượng chủ yếu để dẫn dạy, nhưng khác với tư tưởng tâm thuyết: về mặt lý luận Phật giáo chủ trương các loài hữu tình đều có khả năng thành Phật, còn tư tưởng tâm thuyết chủ trương vạn vật đều vì người mà sáng chế thiết lập.

Trong Kinh nói: “chư Phật đều thành Phật ngay tại thế gian này, không vị Phật nào thành Phật ở cõi trời. Ðức Phật được sinh ra ở nhân gian và thành Phật tại nhân gian, điều này rõ ràng muốn nhấn mạnh Ngài ra đời chỉ vì một đại sự nhân duyên đó là muốn cứu độ chúng sanh mà thành Phật. Ðiểm đặc biệt hơn nữa là Ngài cũng như chúng ta đều là một con người, từ bậc phàm phu khởi phát đại tâm hành Bồ tát đạo rồi thẳng đến đạo quả vô thượng; ở giai đoạn giữa Ngài không trải qua giai đoạn chứng thiên thừa, nhị thừa. Ðại Sư nói sơ lược về tư tưởng này như sau: “ngưỡng chỉ duy Phật Ðà, hoàn thành tại nhân cách” (nương tựa vào Ðức Phật thì hoàn thành ở nhân cách). Chúng ta cũng thường nghe nói câu “ba đời thaønh Phật, một đời viên chứng” “tức thân thành Phật”, tức chỉ mong cầu mau chứng thành Phật. Chỗ này vốn không giống với việc không tính toán thời kiếp, không sợ khổ nạn, công phu đến mức thì Bồ Ðề đạo quả viên mãn tự chứng thành. Như vậy, qua những gì đã trình bày, tinh thần của Phật giáo nhân sanh dũng mạnh, kiên nghị như thế nào; nội dung của nó tiềm tàng sâu rộng ra sao, chúng ta ít nhiều đã có khái niệm về nó.

Vấn đề Phật giáo nhân sinh sau khi được Ðại Sư rút tỉa từ trong kinh ra, trong nhất thời dường như đã làm tăng thêm sức sống mới vô cùng phong phú cho giới tư tưởng Phật giáo Trung Quốc. Sau khi Ngài nhập diệt, tư tưởng này tiếp tục hoằng truyền, và có nhiều người đã hướng đến phương diện này để hoằng dương chánh pháp. Hiện tại, giới tư tưởng gia của Trung Quốc có người phê bình Phật giáo không coi trọng con người. Lời của họ bất luận đúng hay không vẫn thúc đaåy giới học thuật và giới tư tưởng dấy lên tư trào phản đối Phật giáo. Chúng ta hãy nên cảnh giác với những nhà tư tưởng lý học biến tướng đã phục sinh, họ nói vấn đề Phật giáo không coi trọng con người, chẳng lẽ ngươøi học Phật chúng ta không có chút tâm huyết gì đành cam tâm chịu sự bài xích đó sao? Nói một cách bình tĩnh, tôi cũng cảm thấy một số đệ tử tín đồ Phật giáo thích sống cảnh núi rừng, chỉ chuyên lo thành tựu giới đức cho chính mình và điều đó đã trở thành thói quen. Còn một số người ở cửa thiền môn sống nếp sống hỗn độn, tập đoàn Tăng chúng hằng ngày chỉ biết lấy việc xướng tụng làm việc của mình, chẳng màng quan tâm đến bất cứ vieäc thế sự nào khác, càng không chú tâm đến vấn đề Phật giáo nhân sinh. Nếu chúng ta như vậy thì làm sao có thể trách mọi người đã công kích chúng ta? Ðể tránh điều này, chúng ta nên cực lực đề xướng tinh thần Phật giáo nhân sinh để mọi người thấy được giá trị chánh pháp của Ðức Thế Tôn, những giá trị mang tính thời đai, cần thiết cho hôm nay và ngay tại thế gian này.

Cuối cùng, tôi xin dẫn trích lời di huấn của Ðại Sư để kết thúc bài viết này: “người học Phật pháp nếu không thâm hiểu Phật giáo nhân sinh thì dù có đọc thiên kinh vạn quyển, bàn bạc thảo luận gì đi nữa thì cũng chỉ đồng nghĩa với mua hộp trả ngọc”.


---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8104)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16344)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12376)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19775)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4405)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4293)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 4995)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4220)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4216)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11522)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567