Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Người hoằng pháp PG hiện đại với phương diện kinh tế.

09/04/201313:01(Xem: 4401)
Người hoằng pháp PG hiện đại với phương diện kinh tế.

THAM LUẬN

NGƯỜI HOẰNG PHÁP PHẬT GIÁO HIỆN ĐẠI
VỚI PHƯƠNG DIỆN KINH TẾ

Toạ Đàm Phật Pháp: “Sứ Mạng Hoằng Pháp Thời Hiện Đại”
ngày 24 & 25/01/2007 tại Thiền Viện Quảng Đức, VP.II TƯ

(ĐĐ.Thích Quang Thạnh, Chánh Thư ký Đoàn Giảng Sư BHPTƯ)

Trong thời đại phát triển khoa học ngày nay, con người càng trở nên bận rộn, mệt mõi và chịu nhiều áp lực khi phải đối diện với những thách thức, những trở ngại và những sự cạnh tranh tất yếu mà cuộc sống mang lại; và buột phải đồng hành theo nhịp sống hiện đại của xã hội hầu thoả mãn được nhu cầu sống cho chính mình. Chính vì vậy, tư tưởng và đạo đức con người ngày càng xuống cấp trầm trọng trước những làn sóng tấn công của nền văn minh vật chất đầy phức tạp. Trên tinh thần đó, người hoằng pháp trong thời đại mới làm thế nào để chia sẻ và trợ giúp cho họ có một đời sống tốt đẹp cả phương diện vật chất lẫn tinh thần? Dĩ nhiên họ phải dấn thân vào xã hội để thực hiện công việc ‘cứu khổ ban vui’cho mọi người theo phương châm ‘xiển dương Chánh pháp, lợi lạc quần sanh’trên tinh thần ‘tuỳ duyên bất biến.’Nhưng đó cũng chỉ là lý thuyết về triết lý sống; trên thực tế, một khó khăn và trở ngại cho những nhà truyền bá Phật giáo tham gia hoạt động xã hội là sự thiếu thốn về điều kiện vật chất. Đây là một vấn đề quan trọng và cần thiết để quyết định sự thành bại về mọi hoạt động Phật sự của ngành hoằng pháp nói riêng và của Giáo hội chúng ta nói chung. Để giải phóng những tình huống khó khăn đó, người hoằng pháp chúng ta làm thế nào có đủ điều kiện vật chất để duy trì và phát triển công việc hoằng pháp mang lại niềm an lạc hạnh phúc cho con người? Đề tài: “Người Hoằng Pháp Phật Giáo Hiện Đại với Phương Diện Kinh Tế”sẽ mở ra một đạo lộ mới cho chúng ta để cùng nhau suy nghĩ và bàn bạc khi bước vào lãnh vực kinh doanh kinh tế; và chỉ có kinh doanh kinh tế mới có thể tháo gỡ mọi nút thắt mà chúng ta đang đối diện.

Chúng ta thừa hiểu rằng thông thường trong cuộc sống tu hành của những nhà truyền bá tôn giáo nói chung, đặc biệt là Phật giáo nói riêng, hầu hết các vị tu sĩ thường nương tựa vào sự ủng hộ và cúng dường vật chất của những người Phật tử hảo tâm với bốn nhu cầu cần thiết như: quần áo, thức ăn, nệm lót và thuốc men. Chính vì vậy, cuộc sống của họ luôn gặp rất nhiều những khó khăn trong sự tu tập và công việc hoằng pháp của mình trừ khi có sự ủng hộ và cúng dường của những tín đồ Phật tử nhiệt tâm, đây là điều không ai có thể phủ nhận được. Để chứng minh một cách cụ thể và thực tế, ngay tại đây chúng ta cùng tìm hiểu hai vấn đề như sau:

1.Về phương diện tu tập

Nếu người hành giả Phật giáo muốn phát triển tâm linh với một bao tử đói khát và thân hình bạt nhược suy yếu thì liệu cuộc sống tu tập của họ có đạt được kết quả giải thoát giác ngộ được không? Chắc chắn là không, vì chính đức Phật đã từng thử nghiệm cho chính mình bằng lối tu hành ép xác khổ hạnh như: nào nghiến răng, chận lưỡi trên vòm họng, kiềm hãm ý niệm bất thiện với ý niệm thiện,[1]v.v..; nào kiềm chế hơi thở từ mũi, miệng và lỗ tai,[2]v.v..; nào sống lõa thể, một tuần ăn một lần, không tắm rữa, không ngồi mà chỉ đứng, hoặc dựa lưng, hoặc ngồi hổm trên gót chân; nào là ban ngày sống trong rừng thưa, ban đêm sống ngoài trời giữa mùa Đông giá rét; nào là ban ngày sống dưới ánh nắng mặt trời, ban đêm sống trong rừng rậm dưới khung cảnh nóng buéc của mùa Hè mang lại;[3]v.v.. Thế nhưng, kết quả mang đến chỉ là sự suy nhược và đau đớn về thể xác cũng như tinh thần[4], và chính đức Phật đã tuyên bố mạnh mẽ rằng:

“…theo cử chỉ như vậy, theo hành lộ như vậy, theo khổ hạnh như vậy, Ta cũng không chứng được pháp Thượng nhân, không có tri kiến thù thắng xứng đáng bậc thánh. Vì sao vậy? Vì với những phương tiện ấy, không chứng được pháp thượng nhân với Thánh trí huệ. Chính Thánh trí huệ này chứng được thuộc về bậc Thánh, có khả năng hướng thượng, có thể dẫn người thực hành diệt tận khổ đau (…even by this procedure, by this course, by this mortification, did not reach states of further-men or the excellent knowledge and insight befitting the Aryans. What was the cause of this? It was that by these there is no reaching the Aryan intuitive wisdom which, when reached, is Aryan, leading onwards, and which leads onwards the doer of it to the complete destruction of anguish)” [5]

Thật sự, với một thân thể gầy gò bạc nhược phô bày mọi dấu hiệu kiệt quệ không thể là tối ưu để mưu cầu giải thoát tâm linh, đức Phật đã từ bỏ lối sống tu hành ép xác khổ hạnh và trở về một lối sống quân bình hơn. Đó là lối sống tu tập con đường Trung Đạo(Middle Path)[6], một con đường tu tập trách xa hai cực đoan: ép xác khổ hạnh và đời sống sung túc, và Ngài đã thành đạt quả vị Chánh Đẳng Giác.

2.Về phương diện hoằng pháp

Như chúng ta biết, điều kiện vật chất luônđóng một vai trò quyết định quan trọng về sự thành bại của người hoằng truyền Phật pháp về mọi mặt hoạt động như: làm việc và phục vụ Giáo hội; ấn tống kinh sách tại các vùng sâu vùng xa; tổ chức thuyết giảng Phật pháp ở các tỉnh thành và vùng sâu vùng xa; tổ chức các lễ tổng kết hàng năm, hay các hoạt động giao lưu như: đại hội, hội nghị, diễn đàn, hội thảo, toạ đàm, sinh hoạt trại hè, v.v..; truyền bá Phật pháp qua các hoạt động từ thiện xã hội như: giúp đở những gia đình nghèo, những bệnh nhân bị nhiễm chất độc màu da cam hoặc HIV/AIDS, cứu trợ những nạn nhân bị thiên tai bảo lụt; v.v… Tất cả các mặt hoạt động vừa kể trên, người hoằng pháp trong thời đại mới nếu không đủ điều kiện về vật chất, có thể hoàn thành tốt công việc truyền bá Phật giáo hay không? Hay họ cũng phải nhờ vào sự ủng hộ và giúp đở của Phật tử, các nhà hảo tâm, hoặc các cơ quan đoàn thể? Đó là một vấn đề luôn trăn trở và bức xúc của những người truyền bá Phật giáo hiện nay.

Từ hai vấn đề trên, chúng ta khẳng định một cách mạnh mẽ rằng: người hoằng pháp trong thời hiện đại luôn sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức và trở ngại trong việc tu tập và hoạt động hoằng pháp nếu như họ chỉ dựa vào sự ủng hộ của Phật tử thập phương mà không tự dựa vào khả năng chính mình để làm kinh doanh kinh tế. Để tháo gỡ được những khó khăn trên, phương diện hoạt động kinh tế sẽ là một con đường hữu ích và tích cực không chỉ cung cấp những điều kiện vật chất cho nhà truyền bá Phật giáo dễ dàng thành công trong việc dấn thân vào cuộc đời qua hai phương diện: hoạt động xã hội và công tác hoằng pháp; mà còn tạo điều kiện thuận lợi về mặt vật chất cho vị ấy duy trì cuộc sống tôn giáo của mình một cách lâu dài và vững chắc. Nhận thức như thế, nhà hoằng pháp Phật giáo trong thời đại mới không nên hoàn toàn ỷ vào sự giúp đở và cúng dường của Phật tử; mà trái lại, vị ấy một mặt nên ý thức giảm bớt việc tùy thuộc vào sự giúp đỡ vật chất từ các tín đồ Phật tử hay một đoàn thể cơ quan nào, và mặt khác, nên tự mình mạnh dạn tham gia vào hoạt động kinh doanh kinh tế trên tinh thần ‘tuỳ duyên bất biến’ với nhiều phương thức khác nhau như: viết sách báo; đi giảng dạy; trồng trọt rau quả; cày ruộng trồng lúa; làm đậu hũ, sữa đậu nành…; sản xuất các thực phẩm chay; làm nhang; ấn hành các kinh sách Phật giáo, các băng từ CD-VCD-DVD thuyết giảng Phật pháp; sản xuất các vật phẩm cho việc thờ cúng;… thậm chí có thể mở các cửa hiệu vẽ tranh ảnh, hay bán thức ăn chay và Phật cụ,..; hoặc mở công ty du lịch hay giới thiệu việc làm; hoặc có thể làm bất cứ loại hình kinh doanh nào phù hợp với tư tưởng và tinh thần của Phật giáo… Tất cả những công việc kinh doanh như trên nhằm trợ giúp cho người hoằng pháp có được nguồn thu nhập ổn định để hoàn thành tốt công việc truyền bá Chánh pháp và duy trì cuộc sống tôn giáo vững chắc khi bước trên con đường phụng sự Phật pháp, lợi lạc quần sanh.Thế nhưng! bên cạnh đó, chúng ta cần phải nhận thức thấu đáo rằng phương diện kinh doanh kinh tế luôn là con dao hai lưỡi rất dễ dàng làm tổn thương về nhân cách và tư tưởng của mình cũng như tha nhân nếu như vị ấy thiếu ý thức hiểu biết, không tự chủ, và luôn tham đắm trước những liều thuốc độc ngào ngào của ngũ dục thế gian khi họ đang hoạt động kinh doanh kinh tế. Vì theo quy tắc của những nhà kinh doanh ‘thương trường là chiến trường’, đó là quy luật tất yếu của hầu hết các nhà kinh doanh buột phải thực hiện. Do vậy, hầu hết các giới doanh nghiệp khi bước vào thương trường đều phải tận dụng đầu óc tính toán, cạnh tranh, thủ đoạn, và mưu mô của mình để đánh đổ những đối thủ doanh nghiệp yếu kếm hầu tôn vinh sự tồn tại và phát triển việc kinh doanh của chính mình trong xã hội. Vậy người hoằng pháp Phật giáo khi muốn tham gia hoạt động kinh doanh kinh tế phải làm thế nào để khỏi vướng vào những quy tắc không theo luật lệ nhưng rất hợp lý ấy? Câu trả lời này xin nhường lại cho những ai luôn trăn trở và bức xúc trước khó khăn thực tế mà các nhà hoằng pháp trong thời hiện đại đang phải đối diện. Rất mong sự đóng góp ý kiến và trao đổi nhiệt tình của chư tôn Đức cùng qúy đọc giả đang quan tâm!

THƯ MỤC THAM KHẢO

Horner, I.B., The Middle Length Sayings,Vol. I , London: PTS, 2000.

Minh Châu, Thích Trung Bộ Kinh,Vol. I & II, TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1992.

Ambedkar, B.R., The Buddha and His Dhamma, Nagpur – India: Buddha Bhoomi Publication, 1997.

Ñāamoli, The Life of the Buddha, Kandy – Sri-Lanka: Buddhist Publication Society, 1998.

Schumann, H.W. (Auth); &

Phương Lan (dịch), Đức Phật Lịch Sử, TPHCM: Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1997.

Ven. Narada, The Buddha and His Teachings, Kandy: Buddhist Publication Society, 1997.

Wickremesinghe, K.D.P., The Biography of the Buddha, Colombo: Priyanka Lakshman Wickremesinghe, 2002.

CHÚ THÍCH

[1]Xem thêm HT. Thích Minh Châu, ‘Đại Kinh Saccaka’ trong Trung Bộ Kinh I, trang 531f; I.B. Horner, ‘Greater Discourse to Saccaka’ trong The Middle Length Sayings I., trang297; K.D.P. Wickremesinghe, The Biography of the Buddha, trang 58f; H.W. Schumann (Auth), Phương Lan (dịch), Đức Phật Lịch Sử, trang 134f; Bhikkhu Ñāamoli, The Life of the Buddha, trang17; Ven. Narada, The Buddha and His Teachings, trang13.

[2]Xem thêm HT. Thích Minh Châu, ‘Đại Kinh Saccaka’ trong Trung Bộ Kinh I, trang 532ff; I.B. Horner, ‘Greater Discourse to Saccaka’ trong The Middle Length Sayings I, trang297ff; K.D.P. Wickremesinghe, The Biography of the Buddha, trang 59; H.W. Schumann (Auth), Phương Lan (dịch), Đức Phật Lịch Sử, trang 135; Bhikkhu Ñāamoli, The Life of the Buddha, trang17f; Ven. Narada, The Buddha and His Teachings, trang 13f.

[3]Xem thêm HT. Thích Minh Châu, ‘Đại Kinh Saccaka’ trong Trung Bộ Kinh I, trang 536ff; I.B. Horner, ‘Greater Discourse to Saccaka’ trong The Middle Length Sayings I, trang 300ff; HT. Thích Minh Châu, ‘Đại Kinh Sư Tử Hống -Mahāsīhanādasutta’ trong Trung Bộ Kinh I, 1992, trang 180ff; I.B. Horner, ‘Greater Discourse the Lion’s Roar - Mahāsīhanādasutta’ trong The Middle Length Sayings I, trang 103ff; H.W. Schumann (Auth), Phương Lan (dịch), Đức Phật Lịch Sử, trang 135ff; Ven. Narada, The Buddha and His Teachings, trang 14f.

[4]Dr. B.R. Ambedkar, The Buddha and His Dhamma, trang 63ff-65ff.

[5]HT. Thích Minh Châu, ‘Đại Kinh Sư Tử Hống -Mahāsīhanādasutta’ trong Trung Bộ Kinh I, trang 187f. Xem thêm I.B. Horner, ‘Greater Discourse the Lion’s Roar - Mahāsīhanādasutta’ trong The Middle Length Sayings I, trang108.

[6]Xem thêm ‘Con đường Trung Đạo (Middle Path)’ trong Ven. Narada, The Buddha and His Teachings, trang17f.

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/12/2013(Xem: 22904)
Nói về kiếp người Đức Lão Tử đã thốt lên rằng: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân, Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?” Dịch : “ Ta có cái khốn khổ lớn, vì ta có thân, Nếu ta không thân thì đâu có khổ gì ?”
11/12/2013(Xem: 23608)
Đi tu không có nghĩa là phải vào chùa, cạo bỏ râu tóc mà phải được hiểu rộng rãi hơn nhiều! Đi tu là một quá trình khám phá tâm linh. Chúng ta học ứng dụng những lời Phật dạy trong đời sống hàng ngày của mình. Tu là chuyển hóa bản thân, từ vô minh đến trí tuệ, là tìm kiếm, khám phá con đường đưa đến hạnh phúc và an lạc.
10/12/2013(Xem: 19486)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc.
10/12/2013(Xem: 24463)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
08/12/2013(Xem: 32145)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu. Tuy nhiên, thân thể ta là một hợp thể rất mầu nhiệm, nó chứa đựng cả tinh hà vũ trụ bao la. Ta thấy được tất cả các thế hệ tổ tiên, con cháu của ta đều có mặt trong thân ta. Ta cảm nhận sự có mặt của họ trong từng tế bào của cơ thể. Họ luôn có mặt trong ta và chung quanh ta. Họ cũng như các yếu tố khác đã kết hợp lại để làm nên sự sống của ta. Ta có thể tiếp xúc với những yếu tố như đất, nước, lửa và không khí - bốn đại trong ta và ngoài ta. Ta thấy ta như một con sóng trên mặt đại dương. Con sóng này được hình thành bởi các con sóng khác.
03/12/2013(Xem: 58277)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
29/11/2013(Xem: 23783)
Chúng tôi chọn viết đề tài dừng tâm sanh diệt là nhân có một Phật tử than: Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
25/11/2013(Xem: 19367)
Nhìn vào tín ngưỡng Phật giáo nhiều người thường thắc mắc tại sao lại có nhiều "thứ" đến thế! Thật vậy Phật giáo có rất nhiều học phái, tông phái, chi phái..., một số đã mai một, thế nhưng một số vẫn còn đang phát triển và đồng thời cũng có nhiều chuyển hướng mới đang được hình thành. Đối với một người tu tập Phật giáo thì sự kiện ấy thật hết sức tự nhiên: tất cả mọi hiện tượng trong thế giới đều chuyển động, sinh sôi nẩy nở và biến đổi không ngừng. Nếu nhìn vào các tín ngưỡng khác thì ta cũng sẽ thấy cùng một hiện tượng như thế.
06/11/2013(Xem: 18150)
Một trong những vấn đề cổ xưa nhất thách thức nhân loại là câu hỏi về đời sống sau khi chết. Chúng ta đã từ đâu đến và sau khi chết sẽ đi về đâu? Cùng với đó chúng ta tự hỏi mục đích của đời sống tốt là gì. Trước hết, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng sống tốt thì khó hơn sống xấu và nếu không có những lý do thật sự tốt chúng ta dĩ nhiên sẽ thích làm điều dễ. Theo suy nghĩ của tôi, đây là lý do tại sao các tôn giáo có mặt và đi cùng với chúng là những khái niệm về thiên đường và địa ngục.
30/10/2013(Xem: 39633)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]