Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Nhiệm vụ của Tăng già trong thế kỷ 21

09/04/201312:56(Xem: 5297)
Nhiệm vụ của Tăng già trong thế kỷ 21

tang-doanNhiệm vụ của Tăng già trong thế kỷ XXI

Bhikkhu Bodhi

Chúng ta đang chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin, từ nền văn minh vật chất sang nền văn minh tri thức. Sự chuyển đổi ấy sẽ làm thay đổi căn bản mối quan hệ tăng-tục từ gốc rễ, và điều đó thách thức Tăng già phải đi tìm giải pháp khả thi để gìn giữ sự hài hòa của giáo pháp.

Thử thách của thời đại

Tăng già, đoàn thể của các vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni, là sự hiện hữu của Đức Phật trên thế gian này trong 25 thế kỷ qua, chịu trách nhiệm duy trì mạng mạch của giáo pháp Như Lai trong thế giới loài người bằng con đường truyền trao giới luật để đảm bảo sự kế thừa tài sản của Như Lai.

Thật sự, Tam bảo hiện nay tồn tại được là nhờ sự hiện hữu của Tăng già, một trong ba ngôi báu, là những người ý thức được sự tối thượng và siêu việt của chân lý.

Tăng già tồn tại đã hơn 2.500 năm qua. Thời gian đó đủ dài hơn bất kỳ một đế quốc hùng mạnh nào, từ đế chế La Mã, đến các triều đại Trung Hoa, đế quốc Anh... Và, Tăng già tồn tại mà không cần sức mạnh của vũ khí, không có sự đảm bảo về nguồn tài chính, không quân đội, mà chỉ tồn tại nhờ vào sức mạnh của trí tuệ và giới luật.

Tuy nhiên, không có một sự bảo đảm nào cho sự trường tồn của Tăng già hay việc Tăng già tiếp tục có những đóng góp đầy sống động cho cuộc sống con người. Đây là nhiệm vụ của chính các thành viên Tăng già, trong từng thế hệ Tỳ kheo và Tỳ kheo ni - một nhiệm vụ hết sức quan trọng, bởi vì tương lai của Phật pháp phụ thuộc vào tương lai của Tăng già.

Như chúng ta đã biết, sự tồn tại của Tăng già luôn gắn liền với mối quan hệ cộng đồng Phật tử tại gia. Đây là mối quan hệ tương quan và hợp tác.

Theo truyền thống Phật giáo, người Phật tử tại gia cung cấp tứ sự cho các thành viên Tăng, gồm: áo quần, thức ăn, chỗ ở và thuốc men, cùng những nhu yếu phẩm khác; đối lại, Tăng già trao cho cộng đồng Phật tử tại gia lời dạy của Đức Phật và hình ảnh của những con người sống trọn đời theo pháp Phật. Vì sự tồn tại của Tăng già, mối quan hệ này phải được duy trì bằng mọi hình thức. Nhưng một khi xã hội thay đổi, vị trí của cả hai phía trong mối quan hệ trên cũng sẽ có những thay đổi tất yếu và nảy sinh một sự cân bằng mới.

Yếu tố chính và cơ bản nhất trong mối quan hệ giữa Tăng già và Phật tử đang có sự chuyển biến do sự chuyển đổi từ trật tự xã hội truyền thống đến xã hội hiện đại và sang xã hội công nghệ cao. Hiện nay, dấu ấn đặc biệt của sự thay đổi ấy là từ sự chú trọng sản phẩm công nghiệp chuyển sang sự chú trọng sản phẩm thông tin. Sự thay đổi này đang diễn ra trên khắp các quốc gia phương Tây và ở hầu hết các tầng lớp dân cư giàu có trong tất cả mọi quốc gia trên thế giới.

Đôi lúc, người ta nói rằng, chúng ta đang chuyển từ kỷ nguyên công nghiệp sang kỷ nguyên thông tin, từ nền văn minh vật chất sang nền văn minh tri thức. Sự chuyển đổi ấy sẽ làm thay đổi căn bản mối quan hệ tăng-tục từ gốc rễ, và điều đó thách thức Tăng già phải đi tìm giải pháp khả thi để gìn giữ sự hài hòa của giáo pháp. Tôi không phải là người gióng lên tiếng còi báo động và cũng không thể dự đoán được điều gì cụ thể cho tương lai, mà chỉ thấy rằng từ xu thế hiện tại, tôi thử khắc họa những thử thách quan trọng mà Tăng già phải đối diện qua cái nhìn của mình.

Sức mạnh giáo dục

Trong kỷ nguyên thông tin, tỷ lệ dân số có trình độ đại học ngày một cao. So với các thế hệ trước, nhu cầu tìm kiếm nguồn tri thức và thông tin của con người hiện nay cao hơn và sự hiểu biết của họ về thực tế trần gian và cả đạo Phật cũng sắc sảo hơn. Từ đó, họ đòi hỏi giáo pháp phải có một chuẩn mực theo như những gì họ đã học được ở giảng đường đại học và không đơn thuần chấp nhận lời dạy của các bậc đạo sư một cách “vô điều kiện” như lối ứng xử truyền thống.

Họ vốn được giáo dục trong môi trường của trắc nghiệm và điều tra, như vậy, họ sẽ áp dụng các phương pháp trên để nghiên cứu Phật giáo. Từ đó, các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni phải luôn sẵn sàng để trả lời các câu hỏi, đồng thời không mong chờ sẽ nhận được một sự nhún nhường từ những người tại gia; các vị phải biết tạo được sự kính trọng bằng cách giải thích pháp Phật một cách rõ ràng, thuyết phục và lôi cuốn.

Những vị Tỳ kheo và Tỳ kheo ni tự mình phải biết nâng cao nguồn tri thức, trước hết là kinh điển, và sau đó là những nguồn tri thức liên hệ trực tiếp đến giáo pháp, như triết học, tâm lý học hiện đại hay những lĩnh vực tri thức tương quan khác. Cụ thể, đó là làm thế nào để vận dụng nguồn tri thức thế gian nhằm giải thích pháp Phật, một vấn đề hết sức khó khăn. Công việc này đòi hỏi sự quan tâm đúng mức của những người có trách nhiệm với nền giáo dục Phật giáo.

Vai trò của việc xuất bản

Xuất bản giữ vai trò quan trọng vì nó tạo nên những cơ hội tốt cho những người có trình độ trong giới Phật tử tại gia. Việc dùng ngòi bút để truyền bá kinh điển đã xuất hiện từ thế kỷ thứ II tr.TL, và từ giữa thế kỷ thứ XX, việc in ấn phát triển và được thương mại hóa, đã góp phần cho việc truyền bá Phật pháp một cách hữu hiệu.

Ngày nay, có hàng ngàn đầu sách viết về Phật học bằng Anh ngữ, cả về tính phổ thông lẫn bác học, và kinh Phật cũng được dịch và viết ra bằng nhiều thứ tiếng khác nhau. Vì thế, bất cứ một sinh viên cần cù nào cũng có thể tìm kiếm nguồn tri thức Phật học từ lượng sách kể trên.

Chiếc máy tính nhỏ sẽ là một cuộc cách mạng mới trong tiến trình nghiên cứu Phật học. Bất cứ một sinh viên nào, nếu muốn học Phật, thì với chiếc máy tính xách tay, anh ta có thể có cả thư viện sách Phật, kể cả việc lưu giữ các bộ Đại tạng kinh bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau trên thế giới trong ổ đĩa cứng của mình. Thông qua Internet, anh ta cũng có thể tìm kiếm nguồn tư liệu đồ sộ về Phật giáo và tham gia các nhóm thảo luận về tất cả các đề tài liên quan đến Phật giáo.

Những cuốn sách chuyển tải tri thức Phật giáo hiện nay không là đặc quyền sáng tác của giới Tỳ kheo. Vì nguồn tri thức Phật giáo phải lấy từ trong kinh điển, con người có thể chịu lệ thuộc lâu hơn vào các tu viện, là hình thức sinh hoạt truyền thống. Tuy nhiên, ngành Phật học ngày nay cũng đã xuất hiện ở các trường đại học và có rất nhiều học giả uyên thâm Phật học, những người đang nghiên cứu chuyên sâu vào các lĩnh vực Phật học, không phải là tu sĩ.

Với chúng ta, điều này làm nảy sinh một câu hỏi lớn: Tỳ kheo phải làm gì để phụng sự chúng sanh? Tôi có thể nói rằng nhiệm vụ của chúng ta không chỉ hoàn thiện mình theo cách của một học giả nghiên cứu Phật giáo, mà chúng ta phải nghiên cứu toàn bộ nguồn tri thức Phật giáo và sẵn sàng học hỏi kiến thức của các vị trí thức thế gian khi cần thiết.

Vậy thì, đời sống Tăng già tại các tu viện sẽ phải được tổ chức như thế nào để có thể ứng dụng đạo Phật vào thực tế; đó là nơi sẽ tạo cơ hội cho kiến thức Phật học ứng dụng trong đời sống hàng ngày dựa trên niềm tin, lòng mộ đạo và sự kính trọng Tam bảo. Chúng ta phải hợp nhất được nguồn tri thức bác học với đời sống tu tập, sự hỗ tương giữa nhận thức lý luận và niềm tin vào Tam bảo. Chúng ta không thể xây dựng nguồn tri thức Phật học mà không hề có sự thực hành hay mù quáng tu tập mà không có sự hiểu biết tri thức.

Vai trò của việc tu hành

Giáo pháp Phật Đà chinh phục con người không chỉ ở lĩnh vực tri thức, không chỉ ở sự tu tâm, mà đặc biệt phải nằm ở sự giáo hóa tinh thần có tính hệ thống. Sự khác biệt cụ thể nhất của Phật giáo so với các tôn giáo khác đó là: Phật giáo đề cao vai trò của tâm đối với vấn đề hạnh phúc và khổ đau của nhân loại, và phương pháp tu tập để điều phục tâm.

Vì thế, cánh cửa quan trọng nhất đối với tất cả mọi người khi muốn vào nhà Phật là thực tập thiền định. Đây là một cánh cửa đặc biệt cho những ai sống trong nền văn hóa truyền thống ngoài Phật giáo, cụ thể là những người sống trong nền văn hóa phương Tây. Nhưng Thiền cũng là cánh cửa của những người có truyền thống Phật giáo muốn tìm hiểu Phật giáo từ nền tảng tri thức và luôn sống trong tâm trạng hoài nghi.

Tôi không cho rằng thiền là câu trả lời duy nhất, và trong lĩnh vực này, tôi phê phán các giáo sư phương Tây, những người chỉ muốn trích dẫn Thiền để nói về Phật giáo mà từ chối những học thuyết Phật giáo khác cũng như niềm tin tôn giáo. Tôi cho rằng, cần có một sự cân bằng thiết yếu - sự cân bằng giữa ba lĩnh vực: lòng mộ đạo, nghiên cứu giáo pháp và thực tập thiền định.

Niềm tin tạo nên sự tinh tấn, nghiên cứu đưa đến sự tư duy chính xác và thiền định đưa con người trở về với sự bình an, sáng suốt. Nhiều người hiện nay chú trọng pháp Phật thông qua Thiền. Một khi có được sự an lạc nhờ thiền định, họ liền quan tâm đến lời Phật dạy để thức tỉnh mình và dần dần thấu hiểu được triết lý nhà Phật bằng cách học tập kinh điển, phát khởi niềm tin và mộ đạo, cuối cùng là chọn đời sống xuất gia.

Nhiệm vụ của Tăng già

Tăng già là nơi bảo lưu và truyền bá sự cao quý của những giá trị Phật giáo truyền thống, đời sống của các thành viên không bị vướng bận bởi những tiện nghi vật chất. Bằng cách này, Tăng già luôn đề cao đời sống thanh đạm, tôn trọng những giá trị truyền thống và biết giữ gìn môi trường tự nhiên.

Trong thế giới ngày nay, bạo lực đang diễn ra gay gắt giữa các tộc người và tôn giáo khác nhau. Họ luôn tìm cách giải quyết mâu thuẫn bằng vũ lực. Thế nhưng, đời sống Tăng già đặt trên nền tảng phi bạo lực, lấy việc khuyến khích mọi người biết nhẫn nhịn, trao đổi và thỏa hiệp làm cứu cánh để sống hòa hợp với nhau. Như thế, Tăng già luôn động viên con người tìm con đường giải quyết mọi vấn đề xã hội thông qua sự hiểu biết, lòng khoan dung và từ bi.

Để duy trì đời sống Pháp giữa thế gian, Tăng già có nhiệm vụ thiết lập đời sống thanh tịnh, tạo một không gian tĩnh lặng cho thế giới. Từ đó, Tăng già mới có thể giúp cho con người hiểu được thế nào là Thánh trí, giải thoát siêu việt để cùng nhau xây dựng đời sống thoát tục.

Tiếng nói của lương tâm

Đây là một nhiệm vụ chính yếu khác mà Tăng già phải đối diện trong thế giới ngày nay.

Những vấn đề kinh hoàng đang cày xéo cuộc đời của hàng triệu con người và đe dọa gây thiệt hại cho vô số kẻ khác. Trong đó, vấn đề lớn nhất là sự xung đột tộc người và những cuộc chiến tranh hủy diệt. Hậu quả của nó luôn trút lên đầu những công dân vô tội, mà phụ nữ và trẻ em là những người phải gánh chịu một cách nặng nề nhất.

Tôi nghĩ về những chính phủ đang đàn áp, tra tấn và gây ra quá nhiều đau khổ cho dân chúng, ngay cả những công dân tự do của họ vẫn sống trong nỗi sợ hãi triền miên. Tôi nghĩ về khoảng cách giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa các quốc gia phát triển và lạc hậu. Tôi nghĩ về căn bịnh đói khát trầm kha của hàng triệu người nghèo trên thế giới, một căn bịnh rất dễ giải quyết với một giá rất rẻ.

Tôi nghĩ về sự suy đồi nhân phẩm mà hàng triệu phụ nữ trên thế giới đang đối mặt vì họ phải sống và làm việc trong nhà thổ, do phải chịu sự ép buộc của gia đình hay vì sự nghèo đói.

Tôi lại nghĩ về hàng trăm tỷ đô la của nhân loại đang lãng phí hàng năm vì sắm sửa vũ khí, trong khi phân nửa dân số thế giới đang giành giật tìm kiếm miếng ăn mỗi ngày.

Và cuối cùng, tôi nghĩ về sự vô tâm của con người trước sự hủy hoại của môi trường - không khí, nguồn nước, đất đai, thực phẩm - họ chẳng quan tâm gì đến số phận của các thế hệ tương lai. Theo tôi, trách nhiệm mà Tăng già phải thực hiện là gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh để đánh thức nhân loại bằng tiếng nói lương tâm của người con Phật.

Như thế, các thành viên của Tăng già phải thực sự là những con người ưu tú, có thể đảm đương việc truyền bá những giá trị đạo đức Phật giáo để góp phần giải quyết những vấn đề trọng đại của thế giới mà loài người ngày nay đang phải đương đầu.

Quảng Tuấn dịch

---o0o---

Nguồn: chuyenphapluan.com

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 139159)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 18954)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
09/01/2017(Xem: 10744)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thườngcũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
08/01/2017(Xem: 11964)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 12493)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
27/12/2016(Xem: 14676)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 6114)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 29372)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15748)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
16/07/2016(Xem: 13592)
Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn giáo nói chung và pháp phục Phật giáo nói riêng thể hiện tình trạng tôn giáo và xã hội (social and religious status), được sử dụng trong hai hình thức, mặc trong sinh hoạt thường nhật và mặc trong các nghi lễ tôn giáo, nói chung các dịp đặc biệt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]