Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 19: Hoạt động tự cho mình là trung tâm

18/07/201102:02(Xem: 4457)
Chương 19: Hoạt động tự cho mình là trung tâm

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
THE FIRST & LAST FREEDOM
Lời dịch: Ông Không –2010

CHƯƠNG XIX
HOẠT ĐỘNG TỰ CHO MÌNH LÀ TRUNG TÂM

Tôi nghĩ, hầu hết chúng ta đều nhận biết được rằng mọi hình thức của thuyết phục, mọi loại của khích lệ, đã được cống hiến cho chúng ta để kháng cự những hoạt động tự cho mình là trung tâm. Những tôn giáo, qua những hứa hẹn, qua sợ hãi địa ngục, qua mọi hình thức của phê bình trong những hình thức khác nhau đã cố gắng khuyên can con người rời khỏi những hoạt động liên tục này mà sinh ra từ trung tâm của ‘cái tôi’. Điều này đã thất bại, và những tổ chức chính trị đã tiếp quản. Ở đó, lại nữa, sự thuyết phục; ở đó, lại nữa sự hy vọng không tưởng tối thượng. Mọi hình thức của luật pháp từ sự việc rất giới hạn đến cực đoan, kể cả những trại tập trung, đã được áp dụng và thi hành để đối phó với bất kỳ hình thức nào của kháng cự. Tuy vậy chúng ta vẫn tiếp tục trong hoạt động tự cho mình là trung tâm của chúng ta, mà dường như là loại hành động duy nhất mà chúng ta biết. Nếu chúng ta suy nghĩ về nó, chúng ta cố gắng để bổ sung; nếu chúng ta nhận biết được nó, chúng ta cố gắng thay đổi hướng đi của nó; nhưng thuộc cơ bản, sâu thẳm, không có thay đổi, không có sự kết thúc tận gốc rễ của hoạt động đó. Những người biết suy nghĩ nhận biết được điều này; họ cũng ý thức được rằng khi hoạt động từ trung tâm đó kết thúc, vậy là có thể có hạnh phúc. Hầu hết chúng ta đã quá quen thuộc ý tưởng rằng, hoạt động tự cho mình là trung tâm này là tự nhiên và rằng, hành động kết quả, mà là việc không tránh khỏi, chỉ có thể được bổ sung, được định hình và được kiểm soát. Bây giờ những người hơi nghiêm túc hơn, hơi khẩn thiết hơn, không phải ngây thơ – bởi vì ngây thơ là một phương cách của tự-lừa dối – phải tìm ra, khi nhận biết được toàn qui trình lạ lùng này của hoạt động tự cho mình là trung tâm, liệu rằng người ta có thể vượt khỏi.

Muốn hiểu rõ hoạt động tự cho mình là trung tâm này là gì, rõ ràng người ta phải tìm hiểu nó, nhìn ngắm nó, nhận biết được toàn qui trình. Nếu người ta có thể tỉnh thức được nó, vậy thì có thể xóa sạch nó; nhưng muốn tỉnh thức được nó đòi hỏi một hiểu rõ nào đó, một ý định nào đó để đối diện sự việc như nó là và không diễn giải, không bổ sung, không chỉ trích nó. Chúng ta phải nhận biết được điều gì chúng ta đang làm, được tất cả hoạt động mà khởi nguồn từ trạng thái tự cho mình là trung tâm đó; chúng ta phải nhận biết được nó. Một trong những khó khăn chính của chúng ta là, khoảnh khắc chúng ta nhận biết được hoạt động đó, chúng ta muốn định hình nó, chúng ta muốn kiểm soát nó, chúng ta muốn chỉ trích nó hay chúng ta muốn bổ sung nó, vì vậy hiếm khi nào chúng ta có thể nhìn nó một cách trực tiếp. Khi chúng ta nhận biết được, rất ít người trong chúng ta có thể biết phải làm gì.

Chúng ta nhận ra rằng những hoạt động tự cho mình là trung tâm là tổn hại, là hủy diệt, và mọi hình thức của đồng hóa – như với một quốc gia, với một nhóm đặc biệt, với một ham muốn đặc biệt, sự tìm kiếm cho một kết quả ở đây hay đời sau, sự tôn vinh một ý tưởng, sự theo đuổi một mẫu mực, sự theo đuổi đạo đức và vân vân – nhất thiết là hoạt động của một người tự cho mình là trung tâm. Tất cả những liên hệ của chúng ta, với thiên nhiên, với con người, với những ý tưởng, là kết quả của hoạt động đó. Khi biết tất cả việc này, người ta phải làm gì đây? Mọi hoạt động như thế phải kết thúc một cách tự nguyện – không phải tự áp đặt, không phải bị ảnh hưởng, không phải bị điều khiển.

Hầu hết chúng ta nhận biết được rằng, những hoạt động tự cho mình là trung tâm này tạo ra sự ma mãnh và hỗn loạn nhưng chúng ta chỉ nhận biết được nó trong những phương hướng nào đó. Hoặc chúng ta quan sát nó trong những người khác và lơ là những hoạt động riêng của chúng ta hoặc nhận biết, trong liên hệ với những người khác, được hoạt động tự cho mình là trung tâm riêng của chúng ta; chúng ta muốn thay đổi, chúng ta muốn tìm được một thay thế, chúng ta muốn vượt khỏi. Trước khi chúng ta có thể giải quyết được nó chúng ta phải biết làm thế nào qui trình này hiện diện, đúng chứ? Với mục đích hiểu rõ điều gì đó, chúng ta phải có thể quan sát nó; và muốn quan sát nó chúng ta phải biết những hoạt động khác nhau của nó tại những tầng ý thức khác nhau, có ý thức cũng như không ý thức – những hướng dẫn có ý thức, và cũng vậy những chuyển động tự cho mình là trung tâm của những động cơ và những ý định không ý thức bên trong.

Tôi chỉ nhận biết được hoạt động của ‘cái tôi’ này khi tôi đang phản kháng, khi trạng thái ý thức bị cản trở, khi ‘cái tôi’ là sự ham muốn đạt được một kết quả, đúng chứ? Hay tôi nhận biết được trung tâm đó khi vui thú kết thúc và tôi muốn có nhiều vui thú hơn; vậy thì có sự kháng cự và một định hình có mục đích của cái trí đến một kết thúc đặc biệt mà sẽ trao tặng tôi một hài lòng, một thỏa mãn; tôi tỉnh thức được chính tôi và những hoạt động của tôi khi tôi đang theo đuổi đạo đức một cách có ý thức. Chắc chắn một con người theo đuổi đạo đức một cách có ý thức là không-đạo đức. Khiêm tốn không thể được theo đuổi, và đó là vẻ đẹp của khiêm tốn.

Qui trình tự cho mình là trung tâm này là kết quả của thời gian, đúng chứ? Chừng nào trung tâm của hoạt động này còn tồn tại trong bất kỳ phương hướng nào, có ý thức hay không-ý thức, có chuyển động của thời gian và tôi nhận biết được quá khứ và hiện tại cùng với tương lai. Hoạt động tự cho mình là trung tâm của ‘cái tôi’ là một qui trình của thời gian. Chính ký ức cho sự tiếp tục đến hoạt động của trung tâm, mà là ‘cái tôi’. Nếu bạn nhìn ngắm về chính bạn và nhận biết được hoạt động của trung tâm này, bạn sẽ thấy rằng nó chỉ là qui trình của thời gian, của ký ức, của trải nghiệm và đang diễn giải mọi trải nghiệm tùy theo một ký ức; bạn cũng thấy rằng, hoạt động tự cho mình là trung tâm là sự công nhận, mà cũng là qui trình của cái trí.

Liệu cái trí có thể được tự do khỏi tất cả điều này? Nó có thể xảy ra được tại những khoảnh khắc hiếm hoi; nó có lẽ xảy ra cho hầu hết chúng ta khi thực hiện một hành động không-mục đích, không-ý định, không-ý thức; nhưng liệu luôn luôn cái trí có thể hoàn toàn được tự do khỏi hoạt động tự cho mình là trung tâm? Đó là vấn đề rất quan trọng phải đặt ra cho chính chúng ta, bởi vì chính trong việc đặt ra nó, bạn sẽ tìm được đáp án. Nếu bạn nhận biết được toàn qui trình của hoạt động tự cho mình là trung tâm này, hoàn toàn tỉnh thức được những hành động của nó ở những mức độ khác nhau của ý thức của bạn, vậy thì chắc chắn bạn phải tự-hỏi mình liệu hoạt động đó có thể kết thúc? Liệu có thể không suy nghĩ dựa vào thời gian, không suy nghĩ dựa vào tôi sẽ là gì, tôi đã là gì, tôi là gì? Bởi vì từ suy nghĩ như thế, toàn qui trình của hoạt động tự cho mình là trung tâm bắt đầu; cũng vậy, ở đó bắt đầu sự khẳng định để trở thành, khẳng định để chọn lựa và để lẩn tránh, mà tất cả đều là qui trình của thời gian. Trong qui trình đó, chúng ta thấy những ma mãnh, rối loạn, đau khổ, biến dạng, thoái hóa vô tận.

Chắc chắn qui trình của thời gian không là cách mạng. Trong qui trình của thời gian không có thay đổi; chỉ có một tiếp tục và không có đoạn kết, không có gì cả ngoại trừ sự công nhận. Chỉ khi nào bạn hoàn toàn kết thúc qui trình của thời gian, hoạt động của cái tôi, mới có một cách mạng, một thay đổi, sự hiện diện của cái mới mẻ.

Khi nhận biết được toàn qui trình của ‘cái tôi’ này trong hoạt động của nó, cái trí phải làm gì đây? Chỉ qua sự mới mẻ lại, chỉ qua sự cách mạng – không phải qua sự tiến hóa, không phải qua ‘cái tôi’ đang trở thành, nhưng qua cái tôi hoàn toàn kết thúc – mới có cái mới mẻ. Qui trình thời gian không thể mang lại cái mới mẻ; thời gian không là phương cách của sáng tạo.

Tôi không hiểu liệu bất kỳ người nào trong các bạn đã có một khoảnh khắc của sáng tạo. Tôi không đang nói đặt một tầm nhìn nào đó vào hành động; tôi có ý nói rằng cái khoảnh khắc của sáng tạo khi không có sự công nhận. Tại khoảnh khắc đó, có một trạng thái lạ thường mà trong đó ‘cái tôi’, như một hoạt động qua sự công nhận, đã kết thúc. Nếu chúng ta tỉnh thức, chúng ta sẽ thấy rằng trong trạng thái đó không có người trải nghiệm mà ghi nhớ, diễn giải, công nhận và sau đó đồng hóa; không có qui trình của tư tưởng, mà là của thời gian. Trong trạng thái sáng tạo đó, sáng tạo của cái mới mẻ, mà là không-thời gian, không có hành động của cái tôi gì cả.

Chắc chắn câu hỏi của chúng ta là: liệu cái trí có thể ở trong trạng thái đó, không phải khoảnh khắc, không phải những khoảnh khắc hiếm hoi, nhưng – tôi không thích sử dụng những từ ngữ ‘mãi mãi’ hay ‘vĩnh cữu’, bởi vì điều đó sẽ hàm ý thời gian – nhưng ở trong một trạng thái mà không liên quan đến thời gian? Chắc chắn, đó là một khám phá quan trọng phải được thực hiện bởi mỗi người chúng ta, bởi vì đó là cái cửa dẫn đến tình yêu; tất cả những cái cửa khác là những hành động của cái tôi. Nơi nào có hành động của cái tôi, không có tình yêu. Tình yêu không thuộc thời gian. Bạn không thể luyện tập tình yêu. Nếu bạn luyện tập, vậy thì nó là một hoạt động tự-ý thức của ‘cái tôi’ mà hy vọng qua tình yêu sẽ kiếm được một kết quả.

Tình yêu không thuộc thời gian; bạn không thể bắt gặp nó qua bất kỳ nỗ lực có ý thức nào, qua bất kỳ kỷ luật nào, qua bất kỳ đồng hóa nào, mà tất cả đều là qui trình của thời gian. Cái trí, bởi vì chỉ biết được qui trình của thời gian, không thể nhận ra tình yêu. Tình yêu là sự việc duy nhất mà mãi mãi mới mẻ. Bởi vì hầu hết chúng ta đều đã vun đắp cái trí, mà là kết quả của thời gian, chúng ta không biết tình yêu là gì. Chúng ta nói về tình yêu; chúng ta nói chúng ta thương yêu mọi người, chúng ta thương yêu con cái của chúng ta, người vợ của chúng ta, người hàng xóm của chúng ta, chúng ta thương yêu thiên nhiên; nhưng khoảnh khắc chúng ta ý thức được rằng chúng ta thương yêu, hoạt động tự cho mình là trung tâm hiện diện; vì vậy nó không còn là tình yêu.

Toàn qui trình của cái trí này sẽ được hiểu rõ chỉ qua liên hệ – liên hệ với thiên nhiên, với con người, với những chiếu rọi riêng của chúng ta, với mọi thứ quanh quanh chúng ta. Sống không là gì cả ngoại trừ sự liên hệ. Mặc dù chúng ta có lẽ gắng sức tách rời chính chúng ta khỏi sự liên hệ, chúng ta không thể tồn tại mà không có liên hệ. Mặc dù liên hệ là đau khổ nhưng chúng ta không thể chạy trốn, bằng những phương tiện của cô lập, bằng trở thành một ẩn sĩ và vân vân. Tất cả những phương pháp này là những thể hiện thuộc hoạt động của cái tôi. Khi thấy toàn bức tranh này, khi ý thức được toàn qui trình của thời gian như ý thức, không có bất kỳ chọn lựa nào, không có bất kỳ ý định có mục đích, đã khẳng định nào, không có bất kỳ ham muốn cho bất kỳ kết quả nào, bạn sẽ thấy rằng qui trình của thời gian này kết thúc một cách tự nguyện – không bị thôi thúc, không như một kết quả của ham muốn. Chỉ khi nào qui trình đó kết thúc thì tình yêu mới hiện diện, mà mãi mãi mới mẻ.

Chúng ta không phải tìm kiếm sự thật. Sự thật không là cái gì đó xa vời. Nó là sự thật về cái trí, sự thật về những hoạt động của nó từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc. Nếu chúng ta nhận biết được sự thật từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc này, nhận biết được toàn qui trình của thời gian, nhận biết đó giải thoát ý thức hay năng lượng mà là thông minh, tình yêu. Chừng nào cái trí còn sử dụng ý thức như hoạt động tự cho mình là trung tâm, thời gian còn tồn tại cùng tất cả những đau khổ của nó, cùng tất cả những xung đột của nó, cùng tất cả những ma mãnh của nó, những dối gạt có mục đích của nó; và chỉ khi nào cái trí, vì hiểu rõ toàn qui trình này, kết thúc, tình yêu mới có thể hiện diện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/12/2013(Xem: 22335)
Nói về kiếp người Đức Lão Tử đã thốt lên rằng: “Ngô hữu đại hoạn, vị ngô hữu thân, Ngô nhược vô thân, hà hoạn chi hữu?” Dịch : “ Ta có cái khốn khổ lớn, vì ta có thân, Nếu ta không thân thì đâu có khổ gì ?”
11/12/2013(Xem: 22840)
Đi tu không có nghĩa là phải vào chùa, cạo bỏ râu tóc mà phải được hiểu rộng rãi hơn nhiều! Đi tu là một quá trình khám phá tâm linh. Chúng ta học ứng dụng những lời Phật dạy trong đời sống hàng ngày của mình. Tu là chuyển hóa bản thân, từ vô minh đến trí tuệ, là tìm kiếm, khám phá con đường đưa đến hạnh phúc và an lạc.
10/12/2013(Xem: 19307)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc.
10/12/2013(Xem: 24222)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
08/12/2013(Xem: 31755)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu. Tuy nhiên, thân thể ta là một hợp thể rất mầu nhiệm, nó chứa đựng cả tinh hà vũ trụ bao la. Ta thấy được tất cả các thế hệ tổ tiên, con cháu của ta đều có mặt trong thân ta. Ta cảm nhận sự có mặt của họ trong từng tế bào của cơ thể. Họ luôn có mặt trong ta và chung quanh ta. Họ cũng như các yếu tố khác đã kết hợp lại để làm nên sự sống của ta. Ta có thể tiếp xúc với những yếu tố như đất, nước, lửa và không khí - bốn đại trong ta và ngoài ta. Ta thấy ta như một con sóng trên mặt đại dương. Con sóng này được hình thành bởi các con sóng khác.
03/12/2013(Xem: 57657)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
29/11/2013(Xem: 23501)
Chúng tôi chọn viết đề tài dừng tâm sanh diệt là nhân có một Phật tử than: Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
25/11/2013(Xem: 19267)
Nhìn vào tín ngưỡng Phật giáo nhiều người thường thắc mắc tại sao lại có nhiều "thứ" đến thế! Thật vậy Phật giáo có rất nhiều học phái, tông phái, chi phái..., một số đã mai một, thế nhưng một số vẫn còn đang phát triển và đồng thời cũng có nhiều chuyển hướng mới đang được hình thành. Đối với một người tu tập Phật giáo thì sự kiện ấy thật hết sức tự nhiên: tất cả mọi hiện tượng trong thế giới đều chuyển động, sinh sôi nẩy nở và biến đổi không ngừng. Nếu nhìn vào các tín ngưỡng khác thì ta cũng sẽ thấy cùng một hiện tượng như thế.
06/11/2013(Xem: 17929)
Một trong những vấn đề cổ xưa nhất thách thức nhân loại là câu hỏi về đời sống sau khi chết. Chúng ta đã từ đâu đến và sau khi chết sẽ đi về đâu? Cùng với đó chúng ta tự hỏi mục đích của đời sống tốt là gì. Trước hết, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng sống tốt thì khó hơn sống xấu và nếu không có những lý do thật sự tốt chúng ta dĩ nhiên sẽ thích làm điều dễ. Theo suy nghĩ của tôi, đây là lý do tại sao các tôn giáo có mặt và đi cùng với chúng là những khái niệm về thiên đường và địa ngục.
30/10/2013(Xem: 39063)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]