Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 15: Người suy nghĩ và Suy nghĩ

18/07/201102:02(Xem: 3692)
Chương 15: Người suy nghĩ và Suy nghĩ

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
THE FIRST & LAST FREEDOM
Lời dịch: Ông Không –2010

CHƯƠNG XV
NGƯỜI SUY NGHĨ VÀ SUY NGHĨ

Trong mọi trải nghiệm của chúng ta, luôn luôn có người trải nghiệm, người quan sát mà đang tự-thâu lượm cho chính anh ấy nhiều hơn và nhiều hơn hay đang tự-phủ nhận về chính anh ấy. Liệu đó là một qui trình sai lầm và đó là một theo đuổi mà không tạo ra trạng thái sáng tạo hay sao? Nếu nó là một qui trình sai lầm, chúng ta có thể xóa sạch nó trọn vẹn và gạt bỏ nó đi? Điều đó có thể xảy ra khi tôi trải nghiệm, không như một người suy nghĩ trải nghiệm, nhưng khi tôi tỉnh thức được qui trình giả dối và thấy rằng chỉ có một trạng thái trong đó người suy nghĩ là suy nghĩ.

Chừng nào tôi còn đang trải nghiệm, chừng nào tôi còn đang trở thành, phải có hành động phân hai này; phải có người suy nghĩ và suy nghĩ, hai qui trình tách rời đang làm việc; không có tổng thể, luôn luôn có một trung tâm đang vận hành qua ý muốn của hành động để là hay để không là – thuộc tập thể, cá thể, quốc gia và vân vân. Nói chung, đây là qui trình. Chừng nào nỗ lực còn bị phân chia thành người trải nghiệm và vật được trải nghiêm, phải có thoái hóa. Tổng thể chỉ có thể khi người suy nghĩ không còn là người quan sát. Đó là, lúc này chúng ta biết có người suy nghĩ và suy nghĩ, người quan sát và vật được quan sát, người trải nghiệm và vật được trải nghiệm; có hai trạng thái khác biệt. Nỗ lực của chúng ta là lấp khoảng trống giữa hai cái này.

Ý muốn của hành động luôn luôn phân hai. Liệu có thể vượt khỏi ý muốn mà gây tách rời này, và khám phá một trạng thái trong đó hành động phân hai này không còn? Điều đó chỉ có thể tìm được khi chúng ta, một cách trực tiếp, trải nghiệm mà trong đó người suy nghĩ là suy nghĩ. Lúc này chúng ta nghĩ rằng suy nghĩ bị tách rời khỏi người suy nghĩ; nhưng đó là như thế hay sao? Chúng ta muốn nghĩ nó là như vậy, bởi vì lúc đó người suy nghĩ có thể giải thích những vấn đề qua sự suy nghĩ của anh ấy. Nỗ lực của người suy nghĩ là trở thành nhiều hơn hay trở thành ít hơn; và vì vậy trong đấu tranh đó, trong hành động của ý muốn đó, trong ‘đang trở thành’, luôn luôn có yếu tố gây thoái hóa; chúng ta đang theo đuổi một qui trình giả dối và không phải một qui trình thực sự.

Có một phân chia giữa người suy nghĩ và suy nghĩ hay sao? Chừng nào chúng còn bị tách rời, bị phân chia, nỗ lực của chúng ta đều bị phí phạm; chúng ta đang theo đuổi một qui trình giả dối mà là hủy diệt và là nhân tố gây thoái hóa. Chúng ta nghĩ rằng người suy nghĩ tách rời khỏi suy nghĩ của anh ấy. Khi tôi thấy rằng tôi tham lam, thích chiếm hữu, hung bạo, tôi nghĩ rằng tôi không nên là tất cả việc này. Sau đó người suy nghĩ cố gắng thay đổi những suy nghĩ của anh ấy, và vì vậy nỗ lực được thực hiện để ‘trở thành’; trong qui trình của nỗ lực đó anh ấy theo đuổi ảo tưởng giả dối rằng có hai qui trình tách rời, trái lại chỉ có một qui trình. Tôi nghĩ trong đó có sẵn nhân tố căn bản của sự thoái hóa.

Liệu có thể trải nghiệm trạng thái khi chỉ có một thực thể đó và không phải là hai qui trình tách rời, người trải nghiệm và vật được trải nghiệm? Vậy thì có lẽ chúng ta sẽ tìm được sáng tạo là gì, trạng thái đó là gì mà trong đó không có sự thoái hóa vào bất kỳ lúc nào, trong bất kỳ liên hệ nào mà con người có lẽ có.

Tôi tham lam. Tôi và sự tham lam không là hai trạng thái khác biệt; chỉ có một sự việc và đó là tham lam. Nếu tôi nhận biết được rằng tôi tham lam, điều gì xảy ra? Tôi tạo ra một nỗ lực để không-tham lam, hoặc vì những lý do thuộc xã hội hoặc vì những lý do thuộc tôn giáo; nỗ lực đó luôn luôn trong một vòng tròn nhỏ xíu bị giới hạn; tôi có lẽ mở rộng vòng tròn đó nhưng nó luôn luôn bị giới hạn. Thế là nhân tố gây thoái hóa hiện diện ở đó. Nhưng khi tôi theo dõi một cách sâu sắc và gần gũi hơn một chút, tôi phát giác rằng người tạo ra nỗ lực là nguyên nhân của tham lam và anh ấy là chính tham lam đó; và tôi cũng thấy không có ‘cái tôi’ và sự tham lam hiện diện một cách tách rời, nhưng rằng chỉ có tham lam. Nếu tôi nhận ra rằng tôi là tham lam, rằng không có người quan sát mà tham lam nhưng chính tôi là tham lam, vậy thì toàn vấn đề của chúng ta hoàn toàn khác hẳn; phản ứng của chúng ta đến nó hoàn toàn khác hẳn; vậy thì nỗ lực của chúng ta là không-hủy hoại.

Bạn sẽ làm gì khi toàn thân tâm của bạn là tham lam, khi bất kỳ hành động nào bạn thực hiện là tham lam? Bất hạnh thay, chúng ta không suy nghĩ theo sự nhận biết như thế. Có ‘cái tôi’, thực thể cao cấp hơn, một người lính đang kiểm soát, đang thống trị. Đối với tôi, qui trình đó là hủy diệt. Nó là một ảo tưởng và chúng ta biết tại sao chúng ta thực hiện nó. Tôi tự-tách rời chính tôi thành cao hơn và thấp hơn với mục đích để tiếp tục. Nếu chỉ có sự tham lam, nguyên vẹn, không ‘cái tôi’ đang vận hành tham lam, nhưng tôi là sự tham lam hoàn toàn, vậy thì điều gì xảy ra? Vậy thì chắc chắn có một tiến hành hoàn toàn khác hẳn đang vận hành, một trạng thái khác hẳn hiện diện. Chính cái này là sáng tạo, trong đó không có ý thức của ‘cái tôi’ đang thống trị, đang trở thành, một cách tích cực hay một cách tiêu cực. Chúng ta phải đến trạng thái đó nếu chúng ta muốn ‘là’ sáng tạo. Trong sáng tạo đó không có người tạo ra nỗ lực. Nó không là một vấn đề của từ ngữ hay của cố gắng tìm ra trạng thái đó là gì; nếu bạn bắt đầu nó theo cách đó, bạn sẽ bị mất hút và bạn sẽ không bao giờ tìm ra. Điều quan trọng là thấy rằng, người tạo ra nỗ lực và mục đích mà nỗ lực của anh ấy đang nhắm đến, là giống hệt. Điều đó đòi hỏi sự hiểu rõ, sự tỉnh thức vô cùng lớn lao, để thấy cái trí tự-phân chia chính nó thành cái cao quý hơn và cái thấp kém hơn như thế nào – cái cao quý hơn là sự an toàn, thực thể vĩnh cửu – nhưng vẫn còn ở trong qui trình của tư tưởng và vì vậy của thời gian. Nếu chúng ta có thể hiểu rõ điều này như trải nghiệm trực tiếp, vậy thì bạn sẽ thấy, một nhân tố hoàn toàn khác hẳn hiện diện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2014(Xem: 8935)
Sợ hãi và lo âu là sản phẩm tưởng tượng của tâm bị ảnh hưởng bởi những điều kiện ở thế giới bên ngoài. Chúng có gốc rễ từ tham và bám víu. Thực ra, cuộc sống giống như một cuốn phim đang diễn ra, trong đó mọi thứ đều luôn chuyển động và thay đổi. Không có gì trong cõi đời này là thường hằng hay bất biến. Những người trẻ tuổi, khỏe mạnh thì sợ chết yểu. Người già yếu thì lo âu phải kéo dài kiếp sống. Giữa hai nhóm người này là những kẻ ước muốn sống vui vẻ cả đời. Những tham vọng đầy hào hứng về lạc thú thế gian dường như qua đi quá nhanh. Những ước đoán đầy sợ hãi về những điều bất an tạo nên sự lo âu thì dường như không bao giờ chấm dứt. Các cảm xúc đó cũng tự nhiên thôi. Những thăng trầm của cuộc sống đùa giỡn với ngã tưởng của ta, xem nó như một con rối trên sợi dây kéo, nhưng tâm ta thì bản chất của nó là siêu việt. Sự rèn luyện tâm, còn được biết đến như là văn hóa tâm linh, là bước đầu tiên tiến đến việc huấn luyện tâm bất ổn định. Đức Phật đã dạy, Ái sinh ra k
18/08/2014(Xem: 51800)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
16/06/2014(Xem: 7624)
sanh trưởng trong một gia đình trí thức thượng lưu bên Pháp. Năm 20 tuổi, ông bỏ nhà sang Ấn Độ tu học Phật pháp dưới sự hướng dẫn của các thiền sư Tây Tạng, trong đó có Kangyur Rimpotché, sau này là sư phụ của ông. Đồng thời ông bắt đầu một luận án tiến sỹ về di tính tế bào. Về Pháp tiếp tục trong phòng thí nghiệm của François Jabob, ông trình luận án năm 1972. Sau đó, ông trở lại Ấn Độ theo học Phật pháp, tu hành, viết sách và tham gia xây dựng rất nhiều công trình từ thiện cho tới bây giờ. Nhờ sống bên Ấn Độ, ông rất thạo tiếng Tây Tạng và gần đây hay theo Đức Đạt Lai Lạt Ma dịch các diễn văn của Ngài sang tiếng Pháp.
14/05/2014(Xem: 7420)
Bài viết dưới đây được dịch từ một bản tiếng Pháp mang tựa là Compassion, medecin insurpassable (Lòng Từ Bi, một vị lương y vô song) của một học giả Phật Giáo rất uyên bác là bà Sofia Stril-Rever. Bài viết này được đăng trên tập san Dharma số 46 (tháng 10, 2003) với chủ đề Compassion et Médecine (Từ Bi và Y Khoa), độc giả cũng có thể tra cứu bài viết này trên mạng internet tại : http://www.buddhaline.net/La-compassion-une-energie-de Bài chuyển ngữ này là một trong loạt những bài với chủ đề "Quan điểm của Phật Giáo đối với sự đau đớn và bệnh tật". Các bài khác đã được phổ biến là: - Đức Phật thuyết giảng về sự đau đớn (Kinh Sallatha Sutta) - Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn (Kinh Sakalika Sutta) - Giáo huấn của Đức Phật về sự đau đớn và khổ đau (Rich Heller) - Thái độ của người Phật Giáo về sự đau đớn (Ajahn Brahmavamso Mahathera) - Cái chết là một thứ bệnh ung thư (Ajahn Liem) - Y khoa cũn
22/04/2014(Xem: 7179)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáo là tuân theo tinh thần bất bạo động. Mục đích của tôi trong bài viết sau đây là trình bày những ảnh hưởng của lời nguyện ước này trong mối quan hệ với việc đối xử với phạm nhân. Chấp nhận trừng phạt có liên hệ đến chủ tâm bắt phạm nhân phải chịu thiệt hại, tôi lập luận rằng cách áp dụng trừng phạt là không phù hợp với nguyên tắc bất bạo động
26/03/2014(Xem: 5520)
Qua sự phát triển một thái độ trách nhiệm đối với người khác, chúng ta có thể khởi đầu thiết lập một thế giới thân ái và từ bi hơn mà tất cả chúng ta hằng mơ ước. Độc giả có thể đồng ý hay không sự ủng hộ của tôi về trách nhiệm toàn cầu.
12/03/2014(Xem: 22168)
Nghi thức Thọ Trì Đại Bi Sám Pháp (giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng) Kính lạy đời quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai Chính là đời hiện nay Quán Thế Âm Bồ tát Bậc thành công đức diệu Dũ lòng đại từ bi Nơi trong một thân tâm Hiện ra ngàn tay mắt
12/03/2014(Xem: 22769)
Trong một cuộc đàm thoại giữa thính chúng thuộc nhiều thành phân xã hội, là nhà truyền thông, nhà giáo dục, chính khách…Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời các câu hỏi về nhiều vấn đề đời sống xã hội của người tham dự một cách thẳng thắn và có duyên.
12/03/2014(Xem: 7529)
Cũng giống như một số nước đang phát triển khác mải lo bận rộn chuyện cơm áo cùng đủ thứ các vấn nạn về chính trị - xã hội, ở Việt Nam, vấn đề bảo vệ môi trường tuy ngày càng được chú ý nhiều hơn, nhưng một số khái niệm tương đối mới như Đạo đức học môi trường (Environmental Ethics), Đạo đức học về Trái Đất (Land Ethics, cũng gọi “Đại địa luân lý học”), Thần học sinh thái (Theology of Ecology),
11/03/2014(Xem: 10048)
Để thảo luận về vấn đề Hoà Bình theo quan điểm của Kim Cang Thừa ta cần tìm hiểu hai khái niệm Hoà Bình và Kim Cang Thừa cùng những truyền thống đặc sắc của Kim Cang Thưà. Trong phạm vi này, thì tìm hiểu tiến trình của Kim Cang Thưà trong mối quan hệ với các truyền thống Phật giáo khác và nhận thức về mối quan hệ gắn bó giữa Hoà bình và Kim Cang Thừa là vấn đề khả thi. Mặc dù Phật giáo Kim Cang Thừa có ở Trung Quốc, Nhật Bản và các nơi khác, nhưng tiểu luận sau đây sẽ đặt trọng tâm vào truyền thống Tây Tạng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567