Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 8: Mâu thuẫn

18/07/201102:02(Xem: 3606)
Chương 8: Mâu thuẫn

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
THE FIRST & LAST FREEDOM
Lời dịch: Ông Không –2010

CHƯƠNG VIII
MÂU THUẪN

Chúng ta thấy mâu thuẫn trong chúng ta và quanh chúng ta; bởi vì chúng ta ở trong mâu thuẫn, không có an bình trong chúng ta và vì vậy bên ngoài chúng ta. Trong chúng ta có một trạng trái của phủ nhận và khẳng định liên tục – điều gì chúng ta muốn là và điều gì chúng ta là. Trạng thái mâu thuẫn tạo ra xung đột và xung đột này không mang lại an bình – mà là một sự kiện rõ ràng, đơn giản. Mâu thuẫn bên trong này không nên được diễn giải thành một loại lý thuyết phân hai thuộc triết học nào đó, bởi vì đó là một tẩu thoát rất dễ dàng. Đó là bằng cách nói, mâu thuẫn là một trạng thái của phân hai, chúng ta nghĩ rằng chúng ta đã giải quyết được nó – mà rõ ràng chỉ là một thỏa thuận ngấm ngầm, một tẩu thoát thêm nữa khỏi sự kiện.

Bây giờ chúng ta có ý gì qua từ ngữ xung đột, qua từ ngữ mâu thuẫn? Tại sao có một mâu thuẫn trong tôi? – đấu tranh liên tục này để là một cái gì đó tách khỏi tôi là gì. Tôi là cái này, và tôi muốn là cái kia. Mâu thuẫn này trong chúng ta là một sự kiện, không phải một phân hai lý thuyết. Sự phân hai lý thuyết không có ý nghĩa gì trong hiểu rõ về cái gì là. Chúng ta có lẽ bàn luận, nói chuyện, sự phân hai, nó là gì, liệu nó tồn tại, và vân vân; nhưng nó có ý nghĩa gì nếu chúng ta không biết rằng có mâu thuẫn trong chúng ta, những ham muốn đối nghịch, những vui thú đối nghịch, những theo đuổi đối nghịch. Tôi muốn tốt lành và tôi không thể. Mâu thuẫn này, đối nghịch này trong chúng ta, phải được hiểu rõ bởi vì nó tạo ra xung đột; và trong xung đột, trong đấu tranh, chúng ta không thể sáng tạo một cách cá thể. Chúng ta hãy rõ ràng về trạng thái chúng ta đang có. Có mâu thuẫn, vì vậy có đấu tranh; và đấu tranh là phá hoại, phung phí. Trong trạng thái đó chúng ta không sản sinh ra bất kỳ thứ gì khác ngoại trừ hận thù, xung đột, cay đắng hơn và đau khổ hơn. Nếu chúng ta có thể hiểu rõ trọn vẹn điều này và vì vậy được tự do khỏi xung đột, vậy thì có an bình phía bên trong, mà sẽ mang lại hiểu rõ lẫn nhau.

Vấn đề là như thế này. Thấy rằng xung đột là phá hoại, phung phí, tại sao trong mỗi người chúng ta lại có mâu thuẫn? Muốn hiểu rõ điều đó, chúng ta phải tìm hiểu sâu hơn chút nữa. Tại sao có ý thức của những ham muốn đối nghịch? Tôi không hiểu liệu chúng ta có nhận biết được điều đó trong chính chúng ta – mâu thuẫn này, ý thức của muốn và không-muốn này, nhớ điều gì đó và cố gắng quên nó với mục đích tìm ra điều gì đó mới mẻ. Chỉ cần nhìn ngắm nó. Nó rất đơn giản và rất bình thường. Nó không là điều gì đó lạ thường. Sự kiện là, có mâu thuẫn. Vậy thì tại sao mâu thuẫn này lại nảy sinh?

Chúng ta có ý gì qua từ ngữ mâu thuẫn? Nó không hàm ý một trạng thái bất ổn nhất thời đang đối nghịch với một trạng thái bất ổn nhất thời khác hay sao? Tôi nghĩ tôi có một ham muốn vĩnh cửu, tôi ấp ủ trong tôi một ham muốn vĩnh cửu và một ham muốn khác nảy sinh mà mâu thuẫn nó; mâu thuẫn này tạo ra xung đột, mà là phung phí. Đó có nghĩa là, có một phủ nhận liên tục của một ham muốn bởi một ham muốn khác, một theo đuổi đang thắng thế một theo đuổi khác. Bây giờ liệu có một sự việc như ham muốn vĩnh cửu? Chắc chắn, tất cả mọi ham muốn đều nhất thời – không phải lý thuyết, nhưng thực sự. Tôi muốn một việc làm. Đó là, tôi nương dựa một công việc nào đó như một phương tiện của hạnh phúc; và khi tôi có nó, tôi không thỏa mãn. Tôi muốn trở thành một giám đốc, rồi người chủ, và vân vân và vân vân, không phải chỉ trong thế giới này nhưng còn cả trong thế giới tạm gọi là tinh thần – người thầy trở thành hiệu trưởng, vị linh mục trở thành vị giám mục, đệ tử trở thành bậc thầy.

Sự trở thành liên tục này, đang đến một trạng thái tiếp nối một trạng thái khác, tạo ra mâu thuẫn, đúng chứ? Vì vậy, tại sao không nhìn sống, không như một ham muốn vĩnh cửu nhưng như một chuỗi của những ham muốn thoáng chốc luôn luôn đang đối nghịch lẫn nhau? Thế là cái trí không cần thiết phải ở trong một trạng thái của mâu thuẫn nữa. Nếu tôi nhìn ‘sống’ không như một ham muốn vĩnh cửu nhưng như một chuỗi của những ham muốn nhất thời mà đang thay đổi liên tục, vậy thì không còn mâu thuẫn.

Mâu thuẫn nảy sinh chỉ khi nào cái trí có một mục đích cố định của ham muốn; đó là khi cái trí không suy nghĩ tất cả ham muốn như đang chuyển động, thoáng chốc, nhưng ôm chặt một ham muốn và biến nó thành vĩnh cửu – chỉ như vậy, khi những ham muốn khác nảy sinh, sẽ có mâu thuẫn. Nhưng tất cả những ham muốn đều ở trong chuyển động liên tục, không có sự cố định của ham muốn. Không có mục đích cố định trong ham muốn; nhưng cái trí thiết lập một mục đích cố định bởi vì nó cư xử mọi sự việc như một phương tiện để đến được, để đạt được; và phải có mâu thuẫn, xung đột chừng nào người ta còn đang đến. Bạn muốn đến, bạn muốn thành công, bạn muốn tìm ra một sự thật hay Thượng đế tối thượng, mà sẽ là sự thỏa mãn vĩnh cửu của bạn. Vì vậy bạn không đang tìm kiếm sự thật, bạn không đang tìm kiếm Thượng đế. Bạn đang tìm kiếm sự thỏa mãn vĩnh cửu và với sự thỏa mãn đó bạn bao bọc bằng một ý tưởng, một từ ngữ có vẻ đầy kính trọng như Thượng đế, sự thật; nhưng thật ra tất cả chúng ta đều đang tìm kiếm sự thỏa mãn, và chúng ta đặt thỏa mãn đó, hài lòng đó, tại điểm cao nhất, gọi là Thượng đế, và điểm thấp nhất là nhậu nhẹt. Chừng nào cái trí còn đang tìm kiếm thỏa mãn, chẳng có bao nhiêu khác biệt giữa Thượng đế và nhậu nhẹt. Theo xã hội, nhậu nhẹt có lẽ xấu xa; nhưng ham muốn bên trong cho sự thỏa mãn, cho sự kiếm được, thậm chí còn độc hại hơn nhiều, phải không? Nếu bạn thực sự muốn tìm ra sự thật, bạn phải rất chân thật, không phải chỉ ở mức độ từ ngữ nhưng toàn bộ, bạn phải minh bạch một cách lạ thường, và bạn không thể minh bạch nếu bạn không sẵn lòng đối diện những sự kiện.

Bây giờ điều gì tạo ra xung đột trong mỗi người chúng ta? Chắc chắn nó là ham muốn trở thành cái gì đó, phải không? Tất cả chúng ta đều ham muốn trở thành cái gì đó; trở thành thành đạt trong thế giới và, phía bên trong, đạt được một kết quả. Chừng nào chúng ta còn suy nghĩ dựa vào thời gian, dựa vào thành tựu, dựa vào vị trí, phải có xung đột. Rốt cuộc, cái trí là sản phẩm của thời gian. Tư tưởng được đặt nền tảng trên ngày hôm qua, trên quá khứ; và chừng nào tư tưởng còn đang vận hành trong lãnh vực của thời gian, suy nghĩ dựa vào tương lai, của trở thành, của kiếm được, của thành tựu, phải có mâu thuẫn, bởi vì lúc đó chúng ta không thể đối diện chính xác cái gì là. Chỉ trong nhận ra, trong hiểu rõ, trong tỉnh thức không-chọn lựa được cái gì là, mới có thể được tự do khỏi nhân tố không-hòa hợp đó mà là mâu thuẫn.

Vì vậy, điều cần thiết là phải hiểu rõ toàn qui trình suy nghĩ của chúng ta, bởi vì chính ở đó chúng ta phát hiện mâu thuẫn, đúng chứ? Mặc dầu chính tư tưởng đã trở thành một mâu thuẫn, bởi vì chúng ta đã không hiểu rõ toàn qui trình của chính chúng ta; và hiểu rõ đó chỉ có thể xảy ra khi chúng ta hoàn toàn nhận biết được suy nghĩ của chúng ta, không phải như một người quan sát đang vận hành vào suy nghĩ của anh ấy, nhưng hòa hợp và không-chọn lựa – mà gian lao cực kỳ. Vậy thì chỉ như vậy mới có sự tan biến của mâu thuẫn đó mà quá hủy hoại, quá đau khổ.

Chừng nào chúng ta còn đang cố gắng đạt được một kết quả thuộc tâm lý, chừng nào chúng ta còn muốn an toàn phía bên trong, phải có một mâu thuẫn trong sống của chúng ta. Tôi không nghĩ hầu hết chúng ta đều nhận biết được mâu thuẫn này; hoặc, nếu chúng ta nhận biết được, chúng ta không thấy ý nghĩa thực sự của nó. Trái lại, mâu thuẫn cho chúng ta một động lực để sống; chính yếu tố mâu thuẫn làm cho chúng ta cảm thấy rằng chúng ta đang sống. Nỗ lực, đấu tranh của mâu thuẫn, cho chúng ta một ý thức của sức sống. Đó là lý do tại sao chúng ta thương yêu những chiến tranh, đó là lý do tại sao chúng ta tận hưởng trận chiến của những tuyệt vọng. Chừng nào còn có ham muốn để đạt được một kết quả, mà là ham muốn để được an toàn thuộc tâm lý, phải có mâu thuẫn; và nơi nào có mâu thuẫn, không có một cái trí yên lặng. Sự yên lặng của cái trí là cốt lõi cho sự hiểu rõ toàn ý nghĩa của sống. Tư tưởng không bao giờ có thể yên lặng; tư tưởng, mà là sản phẩm của thời gian, không bao giờ có thể tìm ra cái không-thời gian, không bao giờ có thể biết được cái vượt khỏi thời gian. Chính bản chất suy nghĩ của chúng ta là một mâu thuẫn, bởi vì chúng ta luôn luôn đang suy nghĩ dựa vào quá khứ hay vào tương lai; vì vậy chúng ta không bao giờ tỉnh thức trọn vẹn, nhận biết trọn vẹn được hiện tại.

Muốn nhận biết trọn vẹn được hiện tại là một việc khó khăn lạ thường, bởi vì cái trí không thể đối diện trực tiếp một sự kiện mà không-lừa dối. Tư tưởng là sản phẩm của quá khứ, và vì vậy nó chỉ có thể suy nghĩ dựa vào quá khứ hay vào tương lai; nó không thể nhận biết trọn vẹn được một sự kiện trong hiện tại. Chừng nào suy nghĩ, mà là sản phẩm của quá khứ, còn cố gắng xóa sạch mâu thuẫn và tất cả những vấn đề mà nó tạo tác, nó còn đang theo đuổi một kết quả, nó còn đang cố gắng đạt được một mục đích, và suy nghĩ như thế chỉ tạo ra nhiều mâu thuẫn hơn và thế là xung đột, đau khổ và hoang mang trong chúng ta và, vì vậy, quanh chúng ta.

Muốn được tự do khỏi mâu thuẫn, người ta phải nhận biết được hiện tại mà không-chọn lựa. Làm thế nào có thể có chọn lựa khi bạn bị đối diện với một sự kiện? Chắc chắn hiểu rõ về sự kiện không thể xảy ra được, chừng nào tư tưởng còn đang cố gắng vận hành vào sự kiện tùy theo quy định của trở thành, thay đổi, chuyển đổi. Vì vậy hiểu rõ về chính mình là khởi đầu của hiểu rõ; nếu không có hiểu rõ về chính mình, mâu thuẫn và xung đột sẽ tiếp tục. Hiểu rõ về toàn qui trình, tổng thể của chính mình, không nương nhờ bất kỳ chuyên gia nào, bất kỳ uy quyền nào. Theo đuổi uy quyền chỉ nuôi dưỡng sợ hãi. Không người chuyên môn, không người đặc biệt, có thể chỉ cho chúng ta làm thế nào hiểu rõ về qui trình của cái tôi. Người ta phải học hành về nó cho chính người ta. Bạn và tôi có thể giúp đỡ lẫn nhau tìm hiểu nó bằng cách nói chuyện về nó, nhưng không một ai có thể cởi bỏ nó cho chúng ta, không người chuyên môn, không vị thầy, có thể khai sáng nó cho chúng ta. Chúng ta có thể nhận biết được nó chỉ trong liên hệ của chúng ta – trong liên hệ của chúng ta đến những sự vật, đến tài sản, đến con người và đến những ý tưởng. Trong liên hệ, chúng ta sẽ phát giác rằng, mâu thuẫn nảy sinh khi hành động đang phỏng chừng chính nó đến một ý tưởng. Ý tưởng chỉ là sự cô đọng của tư tưởng như một biểu tượng, và nỗ lực sống dựa vào biểu tượng tạo ra một mâu thuẫn.

Vẫn vậy, chừng nào còn có một khuôn mẫu của tư tưởng, mâu thuẫn sẽ tiếp tục; muốn kết thúc khuôn mẫu, và vì vậy kết thúc mâu thuẫn, phải có hiểu rõ về chính mình. Hiểu rõ về chính mình này không là một qui trình dành riêng cho một ít người. Cái tôi được hiểu rõ trong những câu nói hàng ngày của chúng ta, trong cách chúng ta suy nghĩ và cảm thấy, trong cách chúng ta quan sát một người khác. Nếu chúng ta có thể nhận biết được mỗi suy nghĩ, mỗi cảm nhận từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, vậy thì chúng ta sẽ thấy rằng trong liên hệ những phương cách của cái tôi đều được hiểu rõ. Chỉ như vậy mới có thể có sự yên lặng của cái trí, và qua chính yên lặng đó sự thật tối thượng có thể hiện diện.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8149)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16513)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12489)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19951)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4442)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4321)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 5042)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4262)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4243)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11609)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567