Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật về nhà.

09/04/201312:52(Xem: 5529)
Phật về nhà.

PHẬT VỀ NHÀ

Hạnh Chiếu

Được tin Đức Phật về thăm nhà, vua Tịnh Phạn mừng biết bao nhiêu. Không chỉ vì nỗi nhớ thương khôn nguôi người con trai yêu quý đã cách xa bao năm nay được gặp lại, mà đức vua còn nôn nóng gặp con vì nghe nói Thái tử đã thành Phật.

Đến khi Thế Tôn xuất hiện cùng Tăng đoàn, tay ôm bát vào thành khất thực, lặng lẽ đến từng nhà đàn việt, cúi đầu nghiêm cẩn, cử chỉ khiêm hạ, nhà vua hết sức ngỡ ngàng. Thành Phật là như vậy sao? Thành Phật rồi đi xin ăn sao? Vua buồn quá đi, giận quá đi. Nhưng mà thôi, không dám làm kinh động đến Thái tử nữa, sợ Ngài lại bỏ đi. Đợi đến khi Đức Phật ngự vào cung đâu đó đàng hoàng, Tịnh Phạn vương đến gần, trực tiếp diện kiến Phật, nhỏ nhẹ trao đổi: - Nhà ta có thiếu cơm cháo chi đâu, con làm chi chuyện khó coi vậy? Đức Phật mỉm cười và sau đó giải thích cho vua cha biết tam giới là nhà của Như Lai. Chư Tăng đi khất thực là gieo duyên với chúng sanh, chuyển tâm vị kỷ nhỏ nhen của họ thành tâm vị tha rộng lớn bao dung. Gieo duyên với chúng sanh không kể thân sơ, để mở tâm Phật của họ ra là hạnh nguyện của mười phương Như Lai.

Tịnh Phạn vương hiểu ra, lập tức ngay hôm sau vua thân thỉnh Như Lai cùng 1.250 vị Tỳ kheo cho vua được cúng dường tứ sự trong suốt thời gian Tăng đoàn lưu trú tại Ca Tỳ La Vệ. Thật hay! Đức Phật đã tạo duyên lành cho vua cha ngay từ buổi đầu tiên, qua đời sống phạm hạnh, bát cơm ngàn nhà, tình yêu thương không biên cương của một Bậc Giác ngộ, trí tuệ và từ bi mãn túc. Nhà vua thật sự biết mở rộng lòng ra, đón nhận và yêu thương tất cả, cung kính và cúng dường tất cả, kể cả người con trai yêu quý nhất đời mình cũng cúng dường chúng sanh nốt. Để rồi sau đó, vương đã nhận được sự đền bù xứng đáng, đó là quả vị A na hàm do Đức Phật khai thị mà nhà vua thân chứng. Không gì trân quý bằng!

Chuyện Phật về nhà còn nhiều điều đáng nói, trong sử có đủ. Ở đây, tôi nghĩ về đời mình mà nhắc chuyện người xưa.

Chúng mình cũng xuất gia đi tu, cũng về thăm nhà mà sao không giống Phật. Dĩ nhiên chúng ta không thể so sánh với Đức Phật rồi, nhưng ít ra ta là đệ tử Phật, cũng nên hao hao với Đấng Cha lành một chút cho đỡ tủi thân. Mình về nhà chẳng ai nể nang, chẳng ai thiết trai cúng dường, chẳng ai chịu hỏi han đạo lý, chẳng ai giác ngộ chút nào. Có bao giờ mình giật mình hỏi lại, tại sao như vậy không? Bây giờ dù có hỏi hay không hỏi, ta cũng phải thú thật một điều, mình về nhà rất khác Phật.

Trong chúng ta, vẫn còn sót lại những bạn đồng tu trẻ cứ hay về nhà, đòi đủ thứ, xin đủ điều, phàn nàn đủ chuyện, không để lại ấn tượng đẹp của đời sống đạo đối với người thân. Chúng ta không giống Thế Tôn thì làm sao ba má, anh chị em mình giống vua Tịnh Phạn và hoàng thân cho được. Ta về một cái là cả nhà phải lo lắng đủ thứ, chạy đôn chạy đáo nào thuốc men, áo quần, tập vở… rồi lại còn phải tháo gỡ phụ những chuyện trần gian không có, Phật pháp cũng chẳng nghe! Thật ra tất cả chúng ta không ai muốn thế. Khi mình phát nguyện đi tu là mình rất thích đời sống giải thoát, an vui của một người thoát tục. Thích mới tu chứ. Tổ Qui Sơn nói: Là kẻ xuất gia, cất bước siêu việt, tâm hình khác tục, nối thịnh dòng Thánh, chấn nhiếp ma quân để đền đáp bốn ân, cứu giúp ba cõi. Thành ra đời sống của một tu sĩ rất cao thượng, rất có ý nghĩa, rất đẹp nhưng đồng thời trách nhiệm cũng rất nặng.

Tâm ban đầu của chúng ta dĩ nhiên là mạnh mẽ, nhưng đường xa kẻ lữ hành mệt mỏi, lắm lúc buông cương là chuyện khó tránh khỏi. Song cương đã buông, chân đã quỵ thì ba đường sáu nẻo mở ra, tránh sao khỏi nỗi thống khổ luân hồi. Cho nên phải tự nhắc mình thật nhiều, tự giữ cương lĩnh thật vững. Tu hành không gặp thiện hữu tri thức, không gặp thiện duyên là một thiệt thòi lớn, rất dễ lạc bước. Nếu lòng không quyết, chí không vững, chúng ta sẽ đánh mất phương hướng, không còn nhớ mình là người tu nữa. Vĩnh du lãng đãng phong trần khách, nhật viễn gia hương vạn lý trình (Lang thang làm khách phong trần, quê nhà ngày một muôn phần cách xa - Trần Thái Tông). Như thế thì buồn lắm. Đáng tiếc lắm!

Chúng ta xuất gia đã là gan rồi, cần phải giữ cái gan ấy từ thủy cho tới chung. Phải lập nguyện hoàn thành sự nghiệp giác ngộ giải thoát là chính. Ngoài ra không có gì quan trọng hơn. Chúng ta không được như Phật, xong việc mới về nhà thì cũng đợi tâm đạo vững vàng, ngôn hạnh thuần hậu, về nhà sẽ tốt hơn. Không độ được người thân, ít nhất cũng đừng làm quyến thuộc mất tín tâm, đau lòng. Sao ta không nghĩ đến chuyện đền đáp bốn ân mà buông xuống hết mọi nỗi niềm, để tâm gần với Phật hơn, gần chúng sanh hơn? Chừng ấy nhất định cả nhà sẽ đón ta như một vị Phật tương lai hoàn cố hương.

Được thế, bạch Thế Tôn! Chúng con xin theo Phật về nhà.

---o0o---

Nguồn: www.chuyenphapluan.com

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2017(Xem: 8084)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thườngcũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
08/01/2017(Xem: 9170)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 9778)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
27/12/2016(Xem: 12844)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 5325)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 24695)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13435)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
16/07/2016(Xem: 10145)
Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn giáo nói chung và pháp phục Phật giáo nói riêng thể hiện tình trạng tôn giáo và xã hội (social and religious status), được sử dụng trong hai hình thức, mặc trong sinh hoạt thường nhật và mặc trong các nghi lễ tôn giáo, nói chung các dịp đặc biệt.
24/04/2016(Xem: 31844)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 15151)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567