Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19. Ojai, 2 tháng năm 1982

12/07/201100:50(Xem: 3374)
19. Ojai, 2 tháng năm 1982

KRISHNAMURTI
BÀN VỀ XUNG ĐỘT [ON CONFLICT]
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2009

Ojai, 2 tháng năm 1982

Cùng nhau chúng ta đang quan sát tại sao con người không thể sống hòa bình cùng nhau. Đó là một câu phát biểu về sự kiện, không bị phóng đại; và sự tiếp cận đến nó của chúng ta hoặc bằng sự quan sát khách quan, không-cá thể, thuần khiết hoặc bằng một phản ứng cá thể. Nếu bạn tiếp cận nó bằng một phản ứng cá thể, xung đột sẽ tiếp tục mãi mãi. Nhưng nếu bạn tiếp cận nó một cách khách quan, một cách bình thản, không có bất kỳ phương hướng nào – trạng thái của cái trí của bạn khi đang nhìn nghi vấn này là gì? Được rồi, chúng ta sẽ trình bày chúng một cách khác. Tại sao có sự xung đột giữa người đàn ông và người phụ nữ, người đàn ông và người đàn ông, bạn biết, toàn lãnh vực của sự liên hệ? Làm ơn hãy quan sát nó; tự trả lời nó cho chính bạn, tự thâm nhập vào nó; đừng phụ thuộc vào tôi, vào người nói – điều đó không có giá trị gì cả. Ông ta chỉ là một thực thể từ ngữ, một cái điện thoại. Bạn phải tìm ra tại sao. Chúng ta đang cùng nhau quan sát. Bạn không đang học từ người nói; ông ta không đang dạy bảo bạn điều gì cả. Bạn không là người môn đồ của ông ta; ông ta không là uy quyền của bạn; ông ta không là đạo sư của bạn.

Trong quan sát cùng nhau, chúng ta sẽ khám phá tại sao sự xung đột này hiện diện, liệu có thể kết thúc nó hoàn toàn; không phải lý thuyết, không phải chỉ một ngày, nhưng kết thúc nó. Sự xung đột này hiện diện, phải hiện diện bởi vì – tôi không muốn bảo cho bạn, bởi vì nó trở thành xuẩn ngốc. Nếu tôi bảo cho bạn, bạn sẽ nói, vâng, điều đó hoàn toàn đúng; và sau đó bạn quay trở lại. Nó không là gì điều gì đó mà chính bạn đã tìm ra. Bạn biết chuyện gì xảy ra khi bạn tự khám phá điều gì đó cho chính bạn phần tâm lý? Bạn có năng lượng vô hạn, và bạn cần năng lượng đó để làm tự do cái trí khỏi tình trạng bị quy định của nó. Tôi cãi cọ với người vợ của tôi, nếu tôi có vợ, hay một người bạn gái, bất kỳ ai – cãi cọ với cô ấy bởi vì tôi là một người cô độc, tôi muốn chiếm hữu cô ấy. Tôi muốn lệ thuộc vào cô ấy; tôi muốn sự an ủi của cô ấy, sự khuyến khích của cô ấy, sự bầu bạn của cô ấy, người nào đó để khen rằng tôi là người tuyệt vời. Thế là tôi đang dựng lên một hình ảnh về cô ấy; và cô ấy cũng muốn được chiếm hữu, muốn được thỏa mãn tình dục nơi tôi, muốn tôi là cái gì đó khác hẳn tôi là gì. Mỗi người đang sống cùng nhau có lẽ được một ngày, một tuần lễ, hay nhiều năm đã dựng lên một hình ảnh mà trở thành hiểu biết, hiểu biết về lẫn nhau.

Tôi xin phép tìm hiểu về vấn đề của hiểu biết một chốc lát. Điều này rất nghiêm túc. Hiểu biết gây hủy hoại trong sự liên hệ. Tôi nói rằng tôi biết người vợ của tôi bởi vì tôi đã sống chung cùng cô ấy, tôi biết tất cả những tính nết, những gắt gỏng, những bốc đồng của cô ấy, mà trở thành hiểu biết về cô ấy của tôi: cô ấy đi như thế nào, cô ấy uốn tóc như thế nào, cô ấy chuyển động như thế nào. Tôi đã lượm lặt nhiều thông tin và hiểu biết về cô ấy. Và cô ấy đã lượm lặt nhiều hiểu biết về tôi, từ quá khứ – hiểu biết luôn luôn là quá khứ – không có hiểu biết về tương lai. Vậy là chúng ta có hiểu biết về lẫn nhau này.

Tiếp theo chúng ta phải tìm hiểu nhiều về vấn đề của hiểu biết: hiểu biết có vị trí nào trong sống? Chúng ta có cùng nhau trong quan sát này? Hiểu biết sẽ thay đổi con người? Hiểu biết có vị trí nào trong sự thay đổi hay kết thúc của tình trạng bị quy định? Đây là tình trạng bị quy định: tôi đã quy định cô ấy qua hiểu biết, và cô ấy đã quy định tôi qua hiểu biết. Làm ơn, tôi không đang dạy bảo bạn. Bạn đang quan sát bằng tất cả khả năng, năng lượng của bạn để thấy sự kiện này: rằng nơi nào có sự hiểu biết trong liên hệ, phải có xung đột. Tôi phải có hiểu biết để lái một chiếc xe hơi, để viết một câu văn, để nói tiếng Anh hay tiếng Pháp. Tôi phải có hiểu biết công nghệ. Nếu tôi là một người thợ mộc giỏi, tôi phải có hiểu biết về gỗ, những dụng cụ tôi sử dụng, và vân vân; nhưng trong sự liên hệ với người vợ của tôi, với một người bạn, bất kỳ ai, sự hiểu biết mà tôi đã lượm lặt, đã sắp xếp vào cùng nhau qua gắt gỏng liên tục, phân chia liên tục, tham vọng, sẽ ngăn cản sự liên hệ thực tế.

Đây là một sự kiện, không chỉ là một phỏng đoán, một lý thuyết, một ý tưởng? Một ý tưởng là một trừu tượng khỏi một sự kiện. Từ ngữ Hy lạp idea có nghĩa quan sát, thấy, tiến rất gần sự nhận biết, không tạo ra một trừu tượng mà trở thành một ý tưởng. Vì vậy chúng ta không đang giải quyết những ý tưởng, nhưng giải quyết sự liên hệ thực tế, mà là trong xung đột, và xung đột đó nảy sinh khi tôi đã tích lũy nhiều thông tin về cô ấy và cô ấy đã lượm lặt nhiều về tôi. Vậy là lúc đó sự liên hệ của chúng ta được đặt nền tảng trên hiểu biết, và hiểu biết không bao giờ có thể đầy đủ về bất kỳ thứ gì trong sống. Làm ơn hãy nhận ra điều này. Hiểu biết phải luôn luôn theo cùng cái bóng của dốt nát. Bạn không thể biết về vũ trụ. Những người vật lý thiên thể có lẽ diễn tả nó, nhưng để ý thức được tánh vô hạn của nó, không hiểu biết nào được cần đến qua thông tin; bạn phải có một cái trí thật bao la, tuyệt đối trật tự như vũ trụ hiện diện. Đó là một vấn đề khác hẳn.

Vậy là rất quan trọng phải hiểu rõ vị trí của hiểu biết và hiểu rõ vị trí của hiểu biết như một cản trở trong sự liên hệ. Tình yêu không là hiểu biết; tình yêu không là hồi tưởng. Khi không có hiểu biết về cô ấy, tôi nhìn cô ấy như một con người mới mẻ, trong sáng, mỗi ngày mới mẻ. Bạn biết điều đó có ý nghĩa gì không? Bạn có quá nhiều kiến thức, đầy hiểu biết sách vở, điều gì những người khác đã nói. Đó là lý do tại sao một việc đơn giản như thế này trở thành khó khăn cực kỳ để hiểu rõ.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2017(Xem: 8996)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 9700)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
27/12/2016(Xem: 12729)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 5271)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 24373)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13223)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
16/07/2016(Xem: 10084)
Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn giáo nói chung và pháp phục Phật giáo nói riêng thể hiện tình trạng tôn giáo và xã hội (social and religious status), được sử dụng trong hai hình thức, mặc trong sinh hoạt thường nhật và mặc trong các nghi lễ tôn giáo, nói chung các dịp đặc biệt.
24/04/2016(Xem: 31491)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 15024)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
04/03/2016(Xem: 11521)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567