Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12-Sự tự tin của hồn nhiên

29/06/201115:25(Xem: 3839)
12-Sự tự tin của hồn nhiên

NGHĨ VỀ NHỮNG ĐIỀU NÀY
Nguyên tác: Think on These Thingsby Jiddu Krishnamurti
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Bản dịch 2006 – Hiệu đính 7- 2008

Chương 12
Sự tự tin của hồn nhiên

Chúng ta đã thảo luận vấn đề phản kháng bên trong nhà tù: làm thế nào tất cả những người đổi mới, những người lý tưởng và những người khác mà liên tục hoạt động trong việc sản sinh ra những kết quả nào đó, luôn luôn đang phản kháng bên trong những bức tường của tình trạng bị quy định riêng của họ, trong những bức tường của cấu trúc xã hội riêng của họ, trong cái khuôn mẫu văn hóa của nền văn minh mà là một diễn tả của một ý muốn chung của nhiều người. Tôi nghĩ bây giờ sẽ là đúng lúc nếu chúng ta có thể hiểu được tự tin là gì và làm thế nào nó xảy ra được.

Qua trạng thái khởi đầu sẽ có sự tự tin; nhưng trạng thái khởi đầu ở trong khuôn mẫu chỉ mang lại sự tự tin của có cái tôi, mà hoàn toàn khác hẳn sự tự tin của không có cái tôi. Bạn có biết tự tin có nghĩa là gì hay không? Nếu bạn làm một điều gì đó bằng đôi tay của bạn, nếu bạn trồng một cái cây và nhìn thấy nó lớn lên, nếu bạn vẽ một bức tranh, hay viết một bài thơ, hay là, khi bạn lớn lên, xây dựng một cây cầu hay điều hành một công việc quản trị nào đó rất giỏi, nó cho bạn tự tin rằng bạn có thể làm một việc nào đó. Nhưng, bạn thấy không, tự tin như chúng ta biết nó bây giờ luôn luôn ở trong nhà tù, cái nhà tù mà xã hội – dù rằng một người cộng sản, người Ấn độ giáo, hay người Thiên chúa giáo – đã xây dựng quanh chúng ta. Trạng thái khởi đầu trong nhà tù cũng tạo ra được một tự tin nào đó, bởi vì bạn cảm thấy có thể làm được những công việc này: bạn có thể thiết kế một động cơ, là một bác sĩ rất giỏi, một nhà khoa học xuất sắc, và vân vân. Nhưng trạng thái cảm thấy tự tin này xảy ra cùng khả năng để thành công bên trong cái cấu trúc của xã hội, hay để đổi mới, để cho ánh sáng nhiều hơn, để trang trí bên trong của nhà tù thực sự là sự tự tin có cái tôi; bạn biết bạn có thể làm cái gì đó, và bạn cảm thấy quan trọng khi làm việc đó. Trái lại, khi qua tìm hiểu, qua hiểu rõ, bạn phá vỡ khỏi cấu trúc xã hội của cái gì mà bạn là một bộ phận, từ đó có một loại tự tin hoàn toàn khác hẳn mà là không có ý thức của tự quan trọng; và nếu chúng ta có thể hiểu rõ sự khác nhau giữa hai điều này – giữa tự tin có cái tôi và tự tin không có cái tôi – tôi nghĩ rằng nó sẽ có ý nghĩa lớn lao trong cuộc sống của chúng ta.

Khi bạn chơi một trò chơi rất giỏi, như là cầu lông, cricket, hay bóng đá, bạn có một ý thức nào đó của tự tin, phải vậy không? Nó cho bạn trạng thái cảm thấy rằng bạn xuất sắc môn đó. Nếu bạn mau lẹ khi giải những bài toán khó, điều đó cũng nuôi dưỡng một ý thức của tự tin. Khi tự tin được sinh ra từ hành động trong cấu trúc xã hội, luôn luôn theo cùng nó sự kiêu ngạo lạ lùng, phải vậy không? Sự tự tin của con người có thể làm những sự việc, có khả năng đạt được những kết quả, luôn luôn bị tô mầu bởi sự kiêu ngạo này của cái tôi, trạng thái cảm thấy rằng, “Chính tôi làm việc này.” Vì vậy trong chính hành động của đạt được một kết quả, của tạo ra một đổi mới xã hội trong nhà tù, có sự kiêu ngạo của cái tôi, sự cảm thấy rằng tôi đã làm việc đó, rằng lý tưởng của tôi là quan trọng, rằng nhóm của tôi đã thành công. Cái ý thức này của “cái tôi” và “cái của tôi” luôn luôn đi cùng với tự tin mà tự bộc lộ chính nó trong nhà tù xã hội.

Bộ bạn không khi nào nhận thấy rằng những người lý tưởng kiêu ngạo như thế nào hay sao? Những người lãnh đạo chính trị đã tạo ra những kết quả nào đó, đạt được những đổi mới lớn lao – bộ bạn không khi nào nhận thấy rằng họ ngập tràn những cái tôi của họ, thổi phồng quá đáng những lý tưởng của họ và những thành tựu của họ hay sao? Trong đánh giá riêng của họ, họ rất quan trọng. Hãy đọc một ít những bài diễn văn chính trị, hãy nhìn một số trong những người này mà đang gọi chính họ là những nhà đổi mới, và bạn sẽ thấy rằng trong tiến trình đổi mới như thế đó, họ đang nuôi dưỡng cái tôi riêng của họ; những đổi mới của họ, dù mở rộng như thế nào chăng nữa, vẫn còn trong giới hạn của cái nhà tù, vì vậy họ hủy hoại và cuối cùng mang lại nhiều đau khổ và xung đột cho con người hơn.

Bây giờ, nếu bạn có thể nhìn rõ toàn cấu trúc của xã hội, cái khuôn mẫu văn hóa của ý muốn tập thể mà chúng ta gọi là nền văn minh – nếu bạn có thể hiểu rõ tất cả việc đó và vượt khỏi nó, phá vỡ những bức tường ngục tù của xã hội đặc biệt của bạn, dù rằng Ấn độ giáo, cộng sản, hay Thiên chúa giáo, vậy thì bạn sẽ phát giác rằng kia kìa một tự tin mà không bị nhơ bẩn bởi ý thức kiêu ngạo. Đó chính là tự tin của hồn nhiên. Nó giống như sự tự tin của một em bé mà hoàn toàn hồn nhiên, em sẽ cố gắng làm bất kỳ việc gì. Chính là sự tự tin hồn nhiên này sẽ tạo ra một văn minh mới; nhưng sự tự tin hồn nhiên này không thể hiện hữu chừng nào bạn vẫn còn ở trong khuôn mẫu của xã hội.

Làm ơn hãy lắng nghe điều này cẩn thận. Người nói chẳng quan trọng chút gì cả, nhưng bạn hiểu rõ sự thật về điều gì đang được nói lại rất quan trọng. Rốt cuộc ra, đó là giáo dục, phải không? Chức năng của giáo dục không là làm cho bạn phù hợp vào khuôn mẫu của xã hội; trái lại, nó phải là giúp đỡ bạn hiểu rõ hoàn toàn, sâu sắc, đầy đủ và vì vậy phá vỡ khuôn mẫu của xã hội, để cho bạn là một cá thể không còn sự kiêu ngạo đó của cái tôi; nhưng bạn có tự tin bởi vì bạn thực sự hồn nhiên.

Liệu có phải là một bi kịch lớn lao khi hầu hết chúng ta chỉ quan tâm vào công việc hoặc làm thế nào để phù hợp vào xã hội, hoặc làm thế nào để đổi mới hay không? Bạn có thấy rằng hầu hết những câu hỏi bạn đã đưa ra đều phản ảnh thái độ này không? Bạn đang nói rằng, trong phản ảnh lại, “Làm thế nào tôi có thể phù hợp vào xã hội? Người cha của tôi và người mẹ của tôi sẽ nói gì, và nếu tôi không làm việc này điều gì sẽ xảy ra cho tôi?” Một thái độ như thế đó hủy diệt bất kỳ sự tự tin nào, bất kỳ khởi đầu nào mà bạn có. Và bạn rời trường học và đại học giống như những cái máy tự động, có lẽ hiệu quả hơn, nhưng không có bất kỳ ngọn lửa sáng tạo nào. Đó là lý do tại sao rất quan trọng phải hiểu rõ xã hội, môi trường người ta đang sống, và, chính trong lúc tiến hành hiểu rõ đó, phá vỡ nó.

Bạn thấy không, đây là một vấn đề khắp thế giới. Con người đang tìm kiếm một đáp ứng mới mẻ, một tiếp cận mới mẻ với cuộc sống, bởi vì những phương cách cũ đang thối rữa, dù rằng ở Châu âu, ở Nga, hay ở đây. Cuộc sống là một thách thức liên tục, và chỉ cố gắng tạo ra một trật tự thuộc kinh tế tốt đẹp hơn không là một đáp ứng tổng thể đến thách thức đó, mà luôn luôn mới mẻ; và khi những nền văn hóa, những chủng tộc, những nền văn minh không thể đáp ứng một cách tổng thể đến thách thức của cái mới mẻ, chúng bị hủy diệt.

Nếu bạn không được giáo dục đúng cách, nếu bạn không có sự tự tin lạ lùng này của hồn nhiên, hiển nhiên bạn sẽ bị nuốt chửng bởi những ý muốn tập thể và mất hút trong tầm thường. Bạn sẽ đặt vài chữ cái trước danh tính của bạn, bạn sẽ lập gia đình, có con cái, và điều đó sẽ là sự kết thúc của bạn.

Bạn thấy không, hầu hết chúng ta đều kinh hãi. Cha mẹ của bạn kinh hãi, những người giáo dục của bạn kinh hãi, những chính phủ và những tôn giáo đều kinh hãi khi bạn trở thành một cá thể tổng thể, bởi vì tất cả họ đều muốn bạn vẫn còn an toàn trong nhà tù của những ảnh hưởng thuộc môi trường sống và văn hóa. Nhưng chỉ có những cá thể phá vỡ được khuôn mẫu của xã hội bằng cách hiểu rõ nó, và vì vậy là những con người không bị trói buộc bởi tình trạng bị quy định những cái trí riêng của họ – chỉ có những con người như thế mới có thể mang lại một văn minh mới, không phải những con người chỉ biết tuân phục, hay những con người chống đối lại một khuôn mẫu đặc biệt bởi vì họ bị định hình bởi một khuôn mẫu khác. Việc tìm kiếm Chúa hay sự thật không thể ở trong nhà tù, nhưng trái lại trong sự hiểu rõ nhà tù và phá vỡ những bức tường của nó – và chính cái chuyển động hướng về tự do này sáng tạo một văn hóa mới mẻ, một thế giới khác biệt.

Người hỏi: Thưa ông, tại sao chúng ta muốn có một người đồng hành?

Krishnamurti: Một cô gái hỏi tại sao chúng ta muốn có một người đồng hành. Tại sao người ta muốn có một người đồng hành? Bạn không thể sống một mình trong thế giới này mà không có người chồng hay người vợ, không có con cái, không có bạn bè hay sao? Hầu hết mọi người không thể sống một mình, vì vậy họ cần những người đồng hành. Nó đòi hỏi thông minh phi thường khi sống một mình; và bạn bắt buộc phải một mình để tìm ra Chúa, sự thật, chân lý. Thật là vui vẻ khi có một người đồng hành, một người chồng hay một người vợ, và cũng có những em bé nữa; nhưng bạn thấy không, chúng ta bị mất hút trong gia đình, trong công việc, trong cái thường lệ đơn điệu, nhàm chán của một tồn tại thối rữa. Chúng ta đã quen thuộc với nó, và rồi ý tưởng sống một mình trở thành kinh hãi, một điều gì đó phải khiếp sợ. Hầu hết chúng ta đều đặt tất cả trung thành của chúng ta trong một điều gì đó, tất cả những quả trứng của chúng ta đều ở trong một cái rổ, và cuộc sống của chúng ta không có sự phong phú tách rời khỏi những người bạn đồng hành của chúng ta, tách rời khỏi gia đình của chúng ta, tách rời khỏi việc làm của chúng ta. Nhưng nếu có sự phong phú trong cuộc sống của người ta – không phải sự phong phú của tiền bạc hay hiểu biết, mà bất kỳ người nào cũng có thể kiếm được, nhưng phong phú đó mà là chuyển động của sự thật không có bắt đầu lẫn kết thúc – lúc đó người đồng hành trở thành một vấn đề phụ.

Nhưng, bạn thấy không, bạn không được giáo dục sống một mình. Bạn có khi nào dạo bộ một mình không? Nó rất quan trọng khi ra ngoài một mình, khi ngồi dưới một cái cây – không phải với một quyển sách, không phải với một người đồng hành, nhưng một mình bạn – và quan sát một chiếc lá đang rơi, nghe tiếng vỗ của dòng nước, bài hát của người dân chài, nhìn ngắm một con chim đang bay lượn, và nhìn ngắm những tư tưởng riêng của bạn khi chúng đuổi theo nhau qua không gian của cái trí bạn. Nếu bạn có thể ở một mình và nhìn ngắm những việc này, rồi thì bạn sẽ tìm được sự giàu có lạ lùng này mà không có chính phủ nào có thể đánh thuế, không có tổ chức của con người nào có thể làm hư hỏng, và không bao giờ có thể bị hủy diệt.

Người hỏi: Thú tiêu khiển của ông là diễn thuyết phải không? Ông không mệt mỏi vì nói chuyện à? Tại sao ông đang làm việc đó?

Krishnamurti: Tôi vui mừng khi bạn hỏi câu hỏi đó. Bạn biết không, nếu bạn yêu quí một cái gì đó, bạn không bao giờ chán nó – tôi muốn nói cái tình yêu mà trong đó không có tìm kiếm một kết quả, không muốn cái gì từ nó. Khi bạn yêu quí cái gì đó, nó không là sự thành tựu của cái tôi, vì vậy không có thất vọng, không có chấm dứt. Tại sao tôi đang làm việc này? Nó cũng giống như là bạn hỏi tại sao một cây bông hồng lại nở hoa, tại sao bụi hoa lài lại có hương thơm ngọt ngào như vậy, hay tại sao con chim lại bay.

Bạn thấy không, tôi đã thử không nói chuyện, để tìm ra việc gì xảy ra nếu tôi không nói chuyện. Điều đó cũng được thôi. Bạn hiểu rõ không? Nếu bạn đang nói chuyện bởi vì bạn kiếm được cái gì đó từ nó – tiền bạc, một phần thưởng, một ý thức của sự quan trọng riêng của bạn – vậy thì có buồn chán, vậy thì cuộc nói chuyện của bạn là hủy hoại, nó không có ý nghĩa gì cả bởi vì nó chỉ là sự thành tựu của cái tôi; nhưng nếu có tình yêu trong tâm hồn của bạn và tâm hồn của bạn không bị nhét đầy những sự việc của cái trí, vậy thì nó giống như một nguồn nước, giống như một con suối đang tràn ngập không ngưng nghỉ những dòng nước ngọt ngào.

Người hỏi: Khi tôi thương yêu một người và anh ấy tức giận, tại sao sự tức giận của anh ấy mạnh mẽ như thế?

Krishnamurti: Trước hết, bạn có thương yêu một người nào đó chưa? Bạn có biết thương yêu là gì hay không? Nó là trao tặng hoàn toàn cái trí của bạn, quả tim của bạn, thân tâm của bạn nhưng lại không xin xỏ một thứ gì trả lại, không đưa ra một cái bát ăn xin để nhận được tình yêu. Bạn hiểu rõ không? Khi có loại tình yêu đó, có giận dữ hay sao? Và tại sao chúng ta lại giận dữ khi chúng ta thương yêu một ai đó bằng một trạng thái tạm gọi là tình yêu thông thường. Đó có phải bởi vì chúng ta không nhận được một cái gì đó mà chúng ta đang mong đợi từ người mình thương yêu, phải không? Tôi thương yêu người vợ của tôi hay người chồng của tôi, người con trai hay người con gái của tôi, nhưng ngay lúc chúng làm điều gì đó “sai trái” và tôi tức giận. Tại sao?

Tại sao người cha tức giận với người con trai hay người con gái của ông ấy? Bởi vì ông ấy muốn đứa trẻ nên là điều gì đó hay làm điều gì đó, nên phù hợp vào một khuôn mẫu nào đó, và đứa trẻ phản kháng lại. Cha mẹ cố gắng để thành tựu, để làm bất tử chính họ qua tài sản của họ, qua con cái của họ và, khi đứa trẻ làm điều gì đó mà họ không vừa ý, họ rất giận dữ. Họ có một lý tưởng về điều gì mà đứa trẻ nên là, và qua lý tưởng đó họ đang thỏa mãn chính họ; và họ trở nên giận dữ khi đứa trẻ không phù hợp vào cái khuôn mẫu đó mà là sự thỏa mãn của họ.

Bạn có nhận thấy thỉnh thoảng bạn tức giận như thế nào với một người bạn của bạn hay không? Nó cũng cùng một qui trình như vậy mà thôi. Bạn đang mong đợi một điều gì đó từ anh ấy, và khi sự mong đợi đó không được toại nguyện bạn thất vọng – mà có nghĩa, thực sự rằng, bên trong, phần tâm lý bạn đang lệ thuộc vào người đó. Vì vậy bất kỳ nơi nào có sự lệ thuộc tâm lý, phải có sự thất vọng; và thất vọng hiển nhiên nuôi dưỡng sự tức giận, cay đắng, ganh tị và vô số những hình thức khác nhau của xung đột. Đó là lý do tại sao rất quan trọng, đặc biệt khi bạn còn nhỏ, hãy thương yêu một cái gì đó bằng toàn thân tâm của bạn – một cái cây, một con thú, giáo viên của bạn, cha mẹ của bạn – vì lúc đó bạn sẽ tìm ra cho chính mình điều đó có ý nghĩa gì khi không còn xung đột, không còn sợ hãi.

Nhưng bạn thấy không, người giáo dục thường quan tâm đến chính anh ấy, anh ấy bị vướng mắc trong những lo âu cá thể của anh ấy về gia đình, về tiền bạc, về chức vụ. Anh ấy không có tình yêu trong tâm hồn anh ấy, và đây là một trong những khó khăn của giáo dục. Bạn có lẽ có tình yêu trong tâm hồn của bạn, bởi vì thương yêu là một sự việc tự nhiên khi người ta còn trẻ; nhưng chẳng mấy chốc nó bị hủy diệt bởi cha mẹ, bởi người giáo dục, bởi môi trường xã hội. Muốn duy trì hồn nhiên đó, tình yêu đó mà là hương thơm của cuộc sống, phải gian lao vất vả lắm; nó đòi hỏi nhiều thông minh, thấu triệt.

Người hỏi: Làm thế nào cái trí có thể vượt khỏi tất cả những cản trở của nó?

Krishnamurti: Muốn vượt khỏi những cản trở của nó, đầu tiên cái trí phải ý thức được chúng, phải vậy không? Bạn phải biết những giới hạn, những biên giới, những đường ranh của cái trí riêng của bạn; nhưng rất ít người trong chúng ta biết được chúng. Chúng ta nói rằng chúng ta biết nhưng đó chỉ là một khẳng định bằng từ ngữ. Chúng ta không bao giờ nói rằng, “Đây là một chướng ngại, một ngục tù trong tôi, và tôi muốn hiểu rõ nó; vì vậy tôi sẽ nhận thức nó, xem thử nó tồn tại như thế nào và toàn bản chất của nó là gì.” Nếu người ta biết căn bệnh đó là gì, sẽ có khả năng chữa trị nó. Nhưng muốn biết căn bệnh, muốn biết cái giới hạn, cái nhà tù hay cản trở đặc biệt của cái trí, và muốn hiểu rõ nó, người ta không được chỉ trích nó, người ta không được nói nó là đúng hay sai. Người ta phải quan sát nó mà không có bất kỳ một ý kiến, một thành kiến nào về nó – điều đó khó khăn cực kỳ bởi vì chúng ta nuôi dưỡng sự chỉ trích.

Muốn hiểu rõ một em nhỏ, phải không có sự chỉ trích. Chỉ trích em không có ý nghĩa gì cả. Bạn phải quan sát em khi em đang chơi đùa, đang khóc, đang ăn. Bạn phải quan sát em trong tất cả những tâm trạng của em; nhưng bạn không thể làm điều này nếu bạn nói rằng em ấy xấu xa, em ấy ngu dốt, em ấy như thế này hay như thế kia. Tương tự như thế, nếu người ta có thể quan sát những cản trở của cái trí, không chỉ những cản trở hời hợt mà còn những cản trở sâu thẳm hơn trong tầng tiềm thức – quan sát chúng mà không chỉ trích – rồi thì cái trí có thể vượt khỏi chúng; và chính trạng thái vượt khỏi chúng là một chuyển động hướng về sự thật, chân lý.

Người hỏi: Tại sao Chúa đã tạo ra quá nhiều đàn ông và đàn bà trong thế giới này như thế?

Krishnamurti: Tại sao bạn đã quá quen thuộc khi nghĩ rằng Chúa đã tạo ra chúng ta? Có một giải thích, rất đơn giản: cái bản năng sinh học. Bản năng, ham muốn, đam mê, nhục dục là tất cả thành phần của cuộc sống. Nếu bạn nói rằng, “Cuộc sống là Chúa,” vậy thì đó là một vấn đề hoàn toàn khác hẳn. Vậy thì Chúa là mọi thứ, gồm cả đam mê, dục vọng, ganh tị, sợ hãi. Tất cả những nhân tố này đã vận hành để sản xuất trong thế giới này một số lượng ngập tràn đàn ông và đàn bà, vì vậy có vấn đề dư thừa dân số, mà là một trong những lời nguyền của mảnh đất này. Nhưng bạn thấy không, vấn đề này không phải dễ dàng giải quyết được. Có những thôi thúc và những ép buộc khác nhau mà con người tự nhiên thừa kế, và nếu không hiểu rõ toàn bộ qui trình phức tạp đó, chỉ cố gắng điều chỉnh tỉ lệ sinh sản chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Chúng ta đã tạo ra hỗn loạn của thế giới này, mỗi một người chúng ta, bởi vì chúng ta không biết đang sống là gì. Đang sống không phải là cái sự việc được kỷ luật, tầm thường, hào nhoáng bên ngoài này mà chúng ta gọi là sự tồn tại của chúng ta. Đang sống là một cái gì đó hoàn toàn khác hẳn; nó phong phú tuyệt vời, đang thay đổi không ngừng nghỉ, và chừng nào chúng ta còn không hiểu rõ chuyển động miên tận này, cuộc sống của chúng ta chắc chắn chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 7997)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 15627)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12134)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19034)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4328)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4216)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 4835)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4083)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4073)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11264)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567