Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

VII. Tình yêu là gì?

10/01/201116:12(Xem: 3273)
VII. Tình yêu là gì?

J. KRISHNAMURTI
CÁI GƯƠNG CỦA SỰ LIÊN HỆ
TÌNH YÊU, TÌNH DỤC và TRONG TRẮNG
Lời dịch: ÔNG KHÔNG – Tháng 10-2010 –

VII. TÌNH YÊU LÀ GÌ?

T

ôi nhận ra rằng tình yêu không thể hiện diện khi có ghen tuông; tình yêu không thể hiện diện khi có quyến luyến. Bây giờ, liệu tôi có thể được tự do khỏi ghen tuông và quyến luyến? Tôi nhận ra rằng tôi không thương yêu. Đó là một sự kiện. Tôi sẽ không tự-dối gạt mình; tôi sẽ không giả vờ với người vợ của tôi rằng tôi thương yêu cô ấy. Tôi không biết tình yêu là gì. Nhưng tôi có biết rằng tôi ghen tuông và tôi có biết rằng tôi quyến luyến cô ấy biết chừng nào và rằng trong quyến luyến đó có sợ hãi, có ghen tuông, lo lắng; có một ý thức của phụ thuộc. Tôi không ưa thích bị phụ thuộc nhưng tôi bị phụ thuộc bởi vì tôi cô độc; tôi bị sai bảo loanh quanh ở văn phòng, trong nhà máy và tôi về nhà và tôi muốn cảm thấy thanh thản và có tình bầu bạn, để tẩu thoát khỏi chính tôi. Lúc này, tôi tự hỏi mình: Làm thế nào tôi sẽ được tự do khỏi sự quyến luyến này? Tôi đang đưa ra điều đó như một ví dụ.

Thoạt đầu, tôi muốn chạy trốn khỏi câu hỏi. Tôi không biết làm thế nào tôi sẽ chấm dứt với người vợ của tôi? Khi tôi thực sự được tách khỏi cô ấy, sự liên hệ của tôi với cô ấy có lẽ thay đổi. Cô ấy có lẽ quyến luyến tôi và tôi có lẽ không quyến luyến cô ấy hay người phụ nữ nào khác. Nhưng tôi sẽ tìm hiểu. Vì vậy tôi sẽ không tẩu thoát khỏi điều gì tôi tưởng tượng có lẽ là kết quả của hoàn toàn được tự do khỏi tất cả sự quyến luyến. Tôi không biết tình yêu là gì, nhưng tôi thấy rất rõ ràng, dứt khoát, không có bất kỳ ngờ vực nào, rằng sự quyến luyến đến người vợ của tôi có nghĩa ghen tuông, sở hữu, sợ hãi, lo lắng, và tôi muốn tự do khỏi tất cả điều đó. Vì vậy, tôi bắt đầu tìm hiểu; tôi tìm kiếm một phương pháp và tôi bị trói buộc trong một hệ thống. Vị đạo sư nào đó nói, ‘Tôi sẽ giúp đỡ bạn tách lìa, làm điều này và điều này; luyện tập cái này và cái này’. Tôi chấp nhận điều gì ông ấy nói bởi vì tôi thấy sự quan trọng của được tự do và ông ấy hứa hẹn với tôi rằng nếu tôi làm điều gì ông ấy chỉ bảo tôi sẽ nhận được phần thưởng. Nhưng theo cách đó tôi thấy rằng tôi đang tìm kiếm một phần thưởng. Tôi thấy rằng tôi dại dột làm sao đâu; đang mong muốn được tự do nhưng lại bị quyến luyến vào một phần thưởng.

Tôi không muốn bị quyến luyến và tuy nhiên tôi phát hiện chính mình đang bị quyến luyến vào ý tưởng rằng người nào đó, hay quyển sách nào đó, hay phương pháp nào đó, sẽ tưởng thưởng cho tôi sự tự do khỏi quyến luyến. Thế là, phần thưởng trở thành một quyến luyến. Vì vậy tôi nói, ‘Hãy nhìn điều gì tôi đã làm; hãy cẩn thận, đừng bị trói buộc trong cái bẫy đó.’ Dù nó là một người đàn bà, một phương pháp, hay một ý tưởng, nó vẫn còn là sự quyến luyến.

Tôi tự hỏi mình, ‘Tôi sẽ làm gì để được tự do khỏi sự quyến luyến?’ Động cơ của tôi trong muốn được tự do khỏi sự quyến luyến là gì? Không phải vì rằng tôi muốn đạt được một trạng thái nơi không có quyến luyến, không có sợ hãi, và vân vân, hay sao? Và bỗng nhiên tôi nhận ra rằng động cơ tạo ra phương hướng và phương hướng đó sẽ sai khiến sự tự do của tôi. Tại sao có một động cơ? Động cơ là gì? Một động cơ là một hy vọng, hay một ham muốn, để đạt được cái gì đó. Tôi thấy rằng tôi bị quyến luyến vào một động cơ. Không chỉ người vợ của tôi, không chỉ ý tưởng của tôi, phương pháp, nhưng còn cả động cơ của tôi đã trở thành sự quyến luyến của tôi! Thế là, tôi luôn luôn đang vận hành trong lãnh vực của sự quyến luyến – người vợ, phương pháp, và động cơ để đạt được cái gì đó trong tương lai. Tôi bị quyến luyến vào tất cả những điều này. Tôi thấy rằng nó là một vấn đề phức tạp lạ lùng; tôi đã không nhận ra rằng muốn được tự do khỏi sự quyến luyến hàm ý tất cả điều này. Lúc này tôi thấy điều đó rõ ràng như tôi thấy trên bản đồ những con đường chính, những con đường phụ, những ngôi làng; tôi thấy nó rất rõ ràng. Tiếp theo tôi tự nhủ mình, ‘Bây giờ, liệu tôi có thể được tự do khỏi sự quyến luyến sâu đậm mà tôi có đối với người vợ của tôi và cũng đối với phần thưởng mà tôi nghĩ tôi sẽ nhận được và đối với động cơ của tôi?’ Tôi bị quyến luyến vào tất cả điều này. Tại sao? Có phải rằng tôi bị nghèo khó trong chính tôi? Có phải rằng tôi rất, rất cô độc và vì vậy tìm kiếm để tẩu thoát khỏi cảm thấy của cô độc đó – bằng cách nương nhờ một người đàn bà, một ý tưởng, một động cơ – như thể tôi phải bám vào cái gì đó? Tôi thấy rằng nó là như thế: Tôi bị cô độc và qua sự quyến luyến vào cái gì đó, tôi đang tẩu thoát khỏi cảm thấy của sự cô độc lạ lùng đó.

Vì vậy, tôi quan tâm đến sự hiểu rõ tại sao tôi bị cô độc, bởi vì tôi thấy chính là điều đó làm cho tôi bị quyến luyến. Sự cô độc đó đã ép buộc tôi tẩu thoát qua sự quyến luyến vào cái này hay cái kia, và tôi thấy rằng chừng nào tôi còn bị cô độc, những sự việc tiếp theo sẽ luôn luôn như thế này. Cô độc có nghĩa gì? Liệu nó là bản năng, vốn có sẵn, hay liệu nó được tạo ra bởi hoạt động hàng ngày của tôi? Nếu nó là bản năng, nếu nó vốn có sẵn, nó là một phần thuộc số mạng của tôi; tôi không đáng bị khiển trách. Nhưng bởi vì tôi không chấp nhận điều này, tôi nghi ngờ nó và ở lại cùng nghi vấn. Tôi đang nhìn ngắm và không đang cố gắng tìm được một đáp án thuộc trí năng. Tôi không đang cố gắng bảo sự cô độc nó nên làm gì, hay nó là gì; tôi đang nhìn ngắm cho nó nói rõ cho tôi. Có một tỉnh táo cho sự cô độc tự-phơi bày chính nó. Nó sẽ không tự-phơi bày chính nó nếu tôi tẩu thoát; nếu tôi bị sợ hãi; nếu tôi kháng cự nó. Vì vậy tôi nhìn ngắm nó. Tôi nhìn ngắm nó đến độ không suy nghĩ nào can thiệp. Đang nhìn ngắm còn quan trọng hơn suy nghĩ đang chen vào. Và bởi vì toàn năng lượng của tôi quan tâm đến sự nhìn ngắm trạng thái cô độc đó, suy nghĩ không kịp chen vào. Cái trí đang được thách thức và nó phải trả lời. Bởi vì bị thách thức, nó là một khủng hoảng. Trong một khủng hoảng, bạn có năng lượng vô hạn, và năng lượng đó vẫn còn y nguyên mà không bị can thiệp bởi suy nghĩ. Đây là một thách thức phải được trả lời.

Tôi bắt đầu có một đối thoại cùng chính tôi. Tôi tự hỏi chính mình, cái sự việc lạ lùng được gọi là tình yêu này là gì; mọi người nói về nó, viết về nó – tất cả những bài thơ, những bức tranh, tình dục lãng mạn, và tất cả những lãnh vực khác của nó? Tôi hỏi: ‘Liệu có một sự việc như là tình yêu?’ Tôi thấy nó không hiện diện khi có ghen tuông, căm hận, sợ hãi. Thế là tôi không quan tâm đến tình yêu nữa; tôi quan tâm đến cái gì là: sợ hãi của tôi, quyến luyến của tôi. Tại sao tôi bị quyến luyến? Tôi thấy một trong những lý do – tôi không nói nó là tất cả lý do – là rằng tôi bị cô độc, bị tách rời. Tôi càng lớn tuổi bao nhiêu, tôi càng trở nên cô lập bấy nhiêu. Vì vậy tôi nhìn ngắm nó. Đây là một thách thức phải tìm ra, và bởi vì nó là một thách thức, tất cả năng lượng hiện diện ở đó để phản ứng. Điều đó đơn giản. Nếu có một thảm họa nào đó, một tai nạn hay bất kỳ điều gì, nó là một thách thức, và tôi có năng lượng để gặp gỡ nó. Tôi không phải hỏi: ‘Làm thế nào tôi nhận được năng lượng này?’ Khi ngôi nhà đang cháy tôi có năng lượng để chạy thoát, năng lượng lạ thường. Tôi không ngồi ngả người ra và nói: ‘Ồ, tôi phải nhận được năng lượng này’ rồi sau đó chờ đợi; toàn ngôi nhà sẽ bị đốt cháy trước lúc đó rồi.

Thế là, có năng lượng lạ thường để trả lời nghi vấn: Tại sao có trạng thái cô độc này? Tôi đã phủ nhận những ý tưởng, những giả thuyết, và những lý thuyết rằng nó là di truyền, rằng nó thuộc bản năng. Tất cả điều đó không có ý nghĩa gì đối với tôi. Tại sao lại có trạng thái cô độc này mà mỗi con người, nếu anh ấy có nhận biết, đều trải qua, một cách hời hợt hay sâu thẳm? Tại sao nó hiện diện? Liệu có phải rằng cái trí đang làm cái gì đó mà đang tạo ra nó? Tôi đã phủ nhận những lý thuyết về bản năng và di truyền, và tôi đang hỏi: Liệu cái trí, bộ não, chính nó đang tạo ra trạng thái cô lập này, toàn sự tách rời này? Liệu chuyển động của suy nghĩ đang thực hiện điều này? Liệu suy nghĩ trong sống hàng ngày của tôi đang tạo ra ý thức của tách rời này? Trong văn phòng, tôi đang tách rời chính tôi bởi vì tôi muốn trở thành người đứng đầu, vì vậy suy nghĩ luôn luôn đang làm công việc tự-tách rời chính nó. Tôi thấy rằng luôn luôn suy nghĩ đang vận hành để biến nó thành cao cấp hơn, cái trí luôn luôn đang làm việc hướng về sự cô lập này.

Vậy thì vấn đề là: Tại sao suy nghĩ làm điều này? Liệu bản chất của suy nghĩ là làm việc vì chính nó? Giáo dục tạo ra sự cô lập này; nó trao tặng tôi một nghề nghiệp nào đó, một chuyên môn nào đó, và thế là, cô lập. Suy nghĩ, bởi vì bị phân chia, bị giới hạn, bị thời gian trói buộc, đang tạo ra sự cô lập này. Trong giới hạn đó, nó đã tìm được sự an toàn, nói, ‘Tôi có một nghề nghiệp đặc biệt trong sống của tôi; tôi là một giáo sư; tôi an toàn tuyệt đối.’ Vì vậy sự quan tâm của tôi lúc đó là: Tại sao suy nghĩ làm việc đó? Liệu trong chính bản chất của nó, nó phải thực hiện việc này? Bất kỳ việc gì suy nghĩ thực hiện phải bị giới hạn.

Bây giờ, vấn đề là: Liệu suy nghĩ có thể nhận ra rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện đều bị giới hạn, bị phân chia và vì vậy gây tách rời, và rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện sẽ vẫn như thế? Đây là một mấu chốt rất quan trọng: Liệu chính suy nghĩ có thể nhận ra những giới hạn riêng của nó? Hay, liệu tôi đang nói với nó rằng nó bị giới hạn? Tôi thấy, hiểu rõ mấu chốt này rất quan trọng; đây là cốt lõi thực sự của vấn đề. Nếu chính suy nghĩ nhận ra rằng nó bị giới hạn, vậy thì không có sự kháng cự, không có sự xung đột; nó nói, ‘Tôi là điều đó.’ Nhưng nếu tôi đang nói với nó rằng nó bị giới hạn, vậy thì tôi trở nên tách rời khỏi sự giới hạn; vậy thì tôi đấu tranh để khuất phục sự giới hạn. Thế là, có xung đột và bạo lực, không phải tình yêu.

Vì vậy, liệu suy nghĩ nhận ra về chính nó rằng nó bị giới hạn? Tôi phải tìm ra. Tôi đang bị thách thức. Bởi vì tôi bị thách thức, tôi có năng lượng vô hạn. Nói cách khác: Liệu ý thức nhận ra rằng nội dung của nó là chính nó? Hay, bởi vì tôi đã nghe người nào đó nói: ‘Ý thức là nội dung của nó; nội dung của nó tạo thành ý thức’? Thế là tôi nói, ‘Vâng, đúng là như thế.’ Bạn thấy sự khác biệt giữa hai câu? Câu sau, bị tạo ra bởi tư tưởng, bị áp đặt bởi ‘cái tôi’. Nếu tôi áp đặt cái gì đó vào suy nghĩ, vậy thì có xung đột. Nó giống như một chính phủ chuyên chế đang áp đặt vào người nào đó, nhưng ở đây chính phủ đó là điều gì tôi đã tạo ra.

Vì vậy tôi đang hỏi chính mình: Liệu suy nghĩ đã nhận ra những giới hạn riêng của nó? Hay liệu nó đang giả vờ là cái gì đó lạ thường, cao cả, thiêng liêng? – mà là điều vô lý, bởi vì suy nghĩ được đặt nền tảng trên ký ức. Tôi thấy rằng phải có sự rõ ràng về mấu chốt này: rằng không có ảnh hưởng phía bên ngoài đang tác động vào suy nghĩ, đang nói nó bị giới hạn. Vậy thì, bởi vì không có sự áp đặt, không có sự xung đột; đơn giản nó chỉ nhận ra rằng nó bị giới hạn; nó nhận ra rằng bất kỳ việc gì nó thực hiện – sự tôn sùng Thượng đế của nó, và vân vân – đều bị giới hạn, tầm thường, nhỏ nhen – mặc dù nó đã dựng lên những thánh đường nguy nga khắp Châu âu để thờ phụng trong đó.

Thế là, trong đối thoại với chính tôi của tôi đã có sự khám phá rằng cô độc bị tạo ra bởi suy nghĩ. Bây giờ, suy nghĩ đã nhận ra về chính nó rằng nó bị giới hạn và vì vậy không thể giải quyết được vấn đề cô độc. Bởi vì nó không thể giải quyết được vấn đề cô độc, liệu cô độc còn hiện diện? Suy nghĩ đã tạo ra ý thức của cô độc này, trạng thái trống rỗng này, bởi vì nó bị giới hạn, phân chia, tách rời. Và khi nó nhận ra điều này, cô độc không còn; thế là, có sự tự do khỏi quyến luyến. Tôi đã không làm gì cả; tôi đã nhìn ngắm sự quyến luyến, điều gì được hàm ý trong nó – tham lam, sợ hãi, cô độc, tất cả điều đó – và bằng cách theo dõi nó, nhìn ngắm nó, không-phân tích nó, nhưng chỉ đang nhìn ngắm, đang nhìn ngắm và đang nhìn ngắm, có sự khám phá rằng suy nghĩ đã thực hiện tất cả việc này. Tư tưởng, bởi vì nó là tách rời, đã tạo ra sự quyến luyến này. Khi nó nhận ra điều này, sự quyến luyến không còn. Không có nỗ lực nào được thực hiện, bởi vì khoảnh khắc có nỗ lực, xung đột quay lại.

Trong tình yêu không có quyến luyến; nếu có quyến luyến không có tình yêu. Đã có sự xóa sạch nhân tố chính, qua phủ nhận, về cái gì nó không là, qua sự phủ nhận quyến luyến. Tôi biết nó có nghĩa gì trong sống hàng ngày của tôi: không sự hồi tưởng của bất kỳ điều gì người vợ của tôi, người bạn gái của tôi, hay người hàng xóm của tôi đã làm để gây tổn thương cho tôi; không sự quyến luyến đến bất kỳ hình ảnh nào suy nghĩ đã tạo ra về cô ấy – cô ấy đã dọa nạt tôi như thế nào, cô ấy đã cho tôi sự thoải mái như thế nào, tôi đã hưởng thụ vui thú tình dục như thế nào – tất cả những sự việc khác nhau mà chuyển động của suy nghĩ đã tạo ra những hình ảnh, sự quyến luyến vào những hình ảnh đó đã tan biến.

Và có những nhân tố khác – liệu tôi phải trải qua tất cả những điều đó dần dần, từng bước một? Hay tất cả nó đều không còn? Liệu tôi phải trải qua, liệu tôi phải tìm hiểu – như tôi đã tìm hiểu quyến luyến, sợ hãi, vui thú, và ham muốn có thanh thản? Tôi thấy rằng tôi không phải trải qua tất cả sự tìm hiểu về những nhân tố khác nhau này; tôi thấy nó trong lóe sáng, tôi đã nắm bắt nó.

Vậy là, qua sự phủ nhận điều gì không là tình yêu, tình yêu hiện diện. Tôi không phải hỏi tình yêu là gì; tôi không phải theo đuổi nó. Nếu tôi theo đuổi nó, nó là một phần thưởng. Thế là, tôi đã phủ nhận, tôi đã kết thúc, trong sự tìm hiểu đó, chầm chậm, cẩn thận, mà không gây biến dạng, mà không gây ảo tưởng, mọi thứ mà nó không là – cái còn lại hiện diện.

Brockwood Park, Anh

Ngày 30 tháng 8 năm 1977

Một đối thoại cùng Chính mình

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2015(Xem: 7727)
Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, không chỉ theo cảm nhận thông thường, có một sự bắt đầu và có sự chấm dứt. Như vậy là hợp lý; đấy là quy luật; đấy là tự nhiên. Cho nên bất cứ chúng ta gọi là Big Bang hay điều gì như vậy đi nữa, có một tiến trình tiến hóa hay một tiến trình của sự bắt đầu. Cho nên phải có một sự chấm dứt. Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, tôi nghĩ sự chấm dứt hay tận thế sẽ không xảy ra trong vài triệu năm nữa. Bây giờ, sự ô nhiễm. Như quý vị biết tôi đến từ Tây Tạng. Khi chúng tôi ở Tây Tạng, chúng tôi không có ý tưởng về ô nhiễm. Mọi thứ rất trong sạch! Trong thực tế, lần đầu tiên khi tôi biết qua ô nhiễm và nghe mọi người nói về rằng tôi không thể uống nước, nó làm tôi ngạc nhiên. Cuối cùng kiến thức của chúng ta được mở rộng.
23/01/2015(Xem: 4990)
Các tôn giáo nên hợp tác với nhau hầu góp phần mang lại một nền hòa bình cho toàn thế giới. Nếu tìm hiểu cặn kẽ những lời ủy thác do các vị sáng lập tôn giáo đã lưu lại cho chúng ta ngày nay, thì tất chúng ta sẽ hiểu rằng những lời ấy đều đã được ghi sẵn trong kinh sách của mỗi tôn giáo, và nhất loạt nêu lên trọng trách của mỗi người chúng ta trong xã hội.
05/01/2015(Xem: 18885)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 16554)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
11/12/2014(Xem: 9120)
Ngày nay, nhân loại đã tiến bộ rất xa về mặt khoa học, kỹ thuật, đã làm thay đổi bộ mặt thế giới từng ngày, từng giờ và thậm chí từng phút, từng giây, nên đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội v.v… đều được nâng cao một cách đáng kể.
22/11/2014(Xem: 23180)
Có người khách mang đến cho tôi một gói quà. Bên trong là hai quyển sách: Đất nước Cực lạc, Ánh sáng và bóng tối. Tác giả: Liên Hoa Bảo Tịnh. Khoảng thời gian sau này, tôi có rất ít điều kiện để đọc thêm được những sách mới, nên không ngạc nhiên nhiều lắm với tác giả lạ. Dẫu sao, trong tình cảnh ấy mà được đọc những sách lạ, nhất là được gởi từ phương trời xa lạ, thì cũng thật là thú vị. Rồi càng đọc càng thú vị. Một phần vì có những kiến giải bất ngờ của tác giả, về những điểm giáo lý mà mình rất quen thuộc. Quen thuộc từ khi còn là một tiểu sa-di. Nhưng phần khác, thú vị hơn, khi biết rằng Liên Hoa Bảo Tịnh cũng là Đức Hạnh – đó là chú XUÂN KÝ, một thời ở Già-lam cùng với chú Sỹ.
15/11/2014(Xem: 16607)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
24/10/2014(Xem: 11597)
Một kỷ nguyên mới canh tân kỹ thuật đang lan tràn khắp thế giới và đang tiến đến trưởng thành, đó là mạng lưới thông tin toàn cầu internet (world wide web), một hệ thống truyền thông và môi trường học có sức mạnh. Không nên xem Internet chỉ là một phương tiện mới để truyền bá Giáo Pháp với một hình thức mới, mà Internet còn có tiềm năng là một căn cứ cho một cộng đồng Phật Giáo trên mạng (online) cống hiến những giá trị xã hội và tâm linh cho mọi người.
20/10/2014(Xem: 27356)
Đa số Phật tử Việt Nam thường chỉ học hỏi Phật pháp qua truyền thống Trung Hoa; ít ai để ý đến sự sai biệt căn để giữa khởi nguyên của Phật giáo từ Ấn Độ và những khai triển của Trung Hoa. Người Ấn vốn có thái độ coi thường lịch sử; “bởi vì chư thiên yêu thương cái gì tăm tối”*, họ đẩy tất cả những gì xảy ra lui vào bóng tối mịt mù của thần thoại. Riêng Phật tử Ấn cổ thời, với lý tưởng cứu cánh là Niết Bàn, mọi biến cố lịch sử cũng không bận tâm cho lắm. Ngược lại, người Trung Hoa có thái độ lịch sử một cách xác thiết.
17/10/2014(Xem: 8866)
Sợ hãi và lo âu là sản phẩm tưởng tượng của tâm bị ảnh hưởng bởi những điều kiện ở thế giới bên ngoài. Chúng có gốc rễ từ tham và bám víu. Thực ra, cuộc sống giống như một cuốn phim đang diễn ra, trong đó mọi thứ đều luôn chuyển động và thay đổi. Không có gì trong cõi đời này là thường hằng hay bất biến. Những người trẻ tuổi, khỏe mạnh thì sợ chết yểu. Người già yếu thì lo âu phải kéo dài kiếp sống. Giữa hai nhóm người này là những kẻ ước muốn sống vui vẻ cả đời. Những tham vọng đầy hào hứng về lạc thú thế gian dường như qua đi quá nhanh. Những ước đoán đầy sợ hãi về những điều bất an tạo nên sự lo âu thì dường như không bao giờ chấm dứt. Các cảm xúc đó cũng tự nhiên thôi. Những thăng trầm của cuộc sống đùa giỡn với ngã tưởng của ta, xem nó như một con rối trên sợi dây kéo, nhưng tâm ta thì bản chất của nó là siêu việt. Sự rèn luyện tâm, còn được biết đến như là văn hóa tâm linh, là bước đầu tiên tiến đến việc huấn luyện tâm bất ổn định. Đức Phật đã dạy, Ái sinh ra k
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567