Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2 Con đường xa lìa thế tục

07/12/201015:54(Xem: 3281)
2 Con đường xa lìa thế tục

2

Con đường xa lìa thế tục

Philippe Cornu
Hoang Phong chuyển ngữ

Vai trò của Phật giáo đối với vấnđề tính dục tùy thuộc bối cảnh và trình độ hiểu biết Đạo Pháp của người Phật tử.Kỷ cương giới luật ghi chép trong kinh sách được xem như trực tiếp xuất phát từnhững lời giáo huấn của Đức Phật, do đó thường được áp dụng chung cho tất cả cáctông phái trừ một vài ngoại lệ đối với Phật giáo Nhật bản. Tại quốc gia này sựgiữ gìn giới luật quy định cho người xuất gia không mấy khi được tôn trọng và ngàynay một số nhà sư có gia đình, họ vừa là người xuất gia vừa là học giả. Trong Luật Tạng(Vinaya) có một phân đoạn mang tên là Pratimoksha(Lời nguyện giảithoát mang tính cách cá nhân) trình bày chi tiết các giới luật quy định chungcho cư sĩ , cho các sa-di, các tỳ-kheo, cả nam lẫn nữ. Phật tử tại gia có thể nguyệngiữ năm giới luật, trong số này có ba giới luật liên quan đến thân xác : khôngtước đoạt sự sống, không tự ý chiếm giữ những gì không phải của mình, không thựcthi những hành động tính dục thiếu hạnh kiểm, nguyên văn giới luật thứ ba nhưsau : "tôi nguyện giữ giới không thựcthi hành vi sai lầm về lạc thú tính dục"

Kính trọng mình và ngườikhác

Bất cứ ai trong xã hội cũng không bị bắt buộc phải tuânthủ giới luật trên đây, thế nhưng khi đã nguyện giữ giới thì phải giữ một cáchnghiêm chỉnh : hành động giữ giới mang tính cách cá nhân, một sự tự nguyện. Phậtgiáo không nêu lên một tác phong tính dục chính xác nào để cấm đoán, nếu có thìđấy là những hành vi sai trái mang lại khổ đau cho người khác. Tại Á châu, giớiluật liên quan đến tính dục được mô tả rõ ràng hơn các nơi khác, chẳng hạn như sựrăn cấm ngoại tình, dầu sao đấy cũng chỉ là cách giới hạn bớt tính cách quá rộngrãi của giới luật về tính dục vì giới luật này chỉ răn dạy sự kính trọng chínhmình và người khác. Giới luật đó không hề ám chỉ sự đồng tính luyến ái, thật vậyđồng tính luyến ái được chấp nhận khá dễ dàng tại các quốc gia Đông nam Á.

Thế nhưng các hành động tính dục bị cấm đoán triệt để nơichùa chiền, sự cấm đoán đó được quy định tùy thuộc vào hai giai đoạn tu tập : giaiđoạn sa-di và giai đoạn tỳ-kheo đã thụ phong. Người sa-di cả nam lẫn nữ phải tuânthủ mười giới luật, trong số này có giới luật bắt buộc phải giữ gìn sự trong trắng("đoạn dục" - tứckhông được thực thi các hành động dâm dục, tính dục hay dâm ô). Người xuất giasau khi được thụ phong sẽ chính thức được xem như người đã "từ bỏ đời sốnggia đình", người ta còn gọi họ là những người tỳ-kheo (bhikkhu) hay tỳ-kheo-ni (bhikkhuni) tức là các nam hay nữ tu sĩ,họ phải chọn một lối sống đơn giản và đạm bạc. Đó là con đường quyết tâm xa lìathế tục, trên con đường đó người tu hành phải loại bỏ mọi hành vi tiêu cực và chọncho mình một thể dạng tâm thức đạo hạnh, tập trung nghị lực vào việc tu học vàthực thi Đạo Pháp (Dharma- còn gọi làCon Đường). Sự đoạn dục hoàn toàn làmột trong bốn giới luật căn bản mà họ phải tuân thủ, nếu vi phạm vào đấy sẽ bịkhai trừ tức khắc và vĩnh viễn khỏi tập thể tăng đoàn. Tuy nhiên cũng có những giớiluật kém triệt để hơn, chẳng hạn trong số này có mười ba giới cấm nghiêm trọng,nếu phạm vào đấy sẽ bị khai trừ khỏi tăng đoàn nhưng chỉ tạm thời. Trong số mườiba giới cấm ấy có sự thủ dâm, cố ý phóng uế tinh dịch, đụng chạm thân xác hay sờmó phụ nữ, nói những lời lẳng lơ hoặc hàm ý dâm dục, xúi dục người phụ nữ bán dâmhay đứng ra làm mối lái. Tuy nhiên, sự ô nhiễm ban đêm xảy ra lúc đang ngủ khôngphải là một hành động lỗi lầm.

Một người tu hành nếu có những ý tưởng thèm muốn phụ nữphải tức khắc thiền định về sự kinh tởm của thân xác (xem thêm các đoản văn tríchdẫn trong phần đọc thêm). Nếu không kiềm chế được sự ham muốn phải xin hoãn lạicác lời nguyện và hoàn tục trước khi xảy ra tình trạng không hàn gắn được [tức là bị khai trừ vĩnh viễn], xử sự như thế sẽ khôngcó ai chê trách. Ngược lại, [trong chốn chùa chiền]nếu người tu hành không khắc phục được sự cám dỗ sẽ bị khai trừ ngay khỏi tăng đoànđúng theo sự quy định của giới luật. Đối với người nữ tu giới luật cũng tương tợnhư thế không có nhiều khác biệt, tuy nhiên trong trường hợp một người nữ tu bịhãm hiếp tức ngoài sự ưng thuận của mình và không hề phát lộ sự thích thú, thìđấy không phải là một sự vi phạm quan trọng và có thể tha thứ.

Mặc dù Phật giáo Nguyên thủy chủ trương sự cấm đoán khắtkhe về tính dục, thế nhưng đời sống xã hội trong các quốc gia Đông nam Á theoPhật giáo Theravada (Nguyên thủy) lại không quá khắc nghiệt nếu các tác phong tínhdục không mang tính cách hung bạo và ngoại tình gây ra khổ đau cho người khác,( Philippe Cornu).

Các đoản văn đọc thêm

Sự xa lánh thế tục của vị Bồ-táttrước khi thành Phật

Trong khi nghe các nhạc công đàn hát để giải khuây, ngườiBồ-tát [tức là Đức Phật tương lai] ngủ thiếp đi.Cả đoàn hát cũng mệt lả và lăn ra ngủ. Bỗng nhiên người Bồ-tát giật mình thứcgiấc nhìn thấy các nữ nhạc công vẫn còn đấy, họ tựa người vào nhau, quần áo xôlệch để lộ những thân hình tương tợ như những bức tượng gỗ, nước mũi thò lò,hai mắt sưng lên như đang khóc, nước dãi lòng thòng chảy ra từ miệng, đàn và sáovung vãi trên mặt đất. Người Bồ-tát bàng hoàng nhìn thấy toàn thể cung điện chẳngkhác gì một nấm mồ và thốt lên ba lần : "Bất hạnh thay ! Bất hạnh thay! Taphải rời bỏ chốn này ! Trước đây ta vẫn quyến luyến với cung điện nơi vua cha củata đang trú ngụ, thế nhưng hôm nay nó lại hiện ra với ta như thế này đây!".Người Bồ-tát cảm thấy kinh tởm và thốt lên : "Bất hạnh thay !", và từđáy sâu thẳm của lòng người Bồ-tát hiển hiện lên niềm khát vọng được từ bỏ tấtcả.

TríchtrongLuật Tạng của học phái Mahisasaka (một học phái Phật giáo xưa, thành lập vào thế kỷ thứ II trướcTây lịch)do André BAREAUtrích dẫn trong quyển En Suivant Bouddha(Theo vết chân Phật), NXB Philippe Le Beau, 2000.

Suy tư về tính cách ghê tởm củathân xác

Thây ma thật ghê tởm : thân xác của người sống cũng chẳnghơn gì ! Người du-già nên xem thân xác là những gì kinh khiếp và phải luôn nhớđến điều ấy. Có ba mươi hai thứ ghê tởm thuộc màu sắc, hình tướng, mùi hôi, vịtrí và sự phân bố [các đối tượng nhận biết của giác cảm].Vật chất đào thải từ thân xác thật ghê tởm và nhơ nhớp. Các thành phần chống đỡthân xác cũng thế. Giống như một con giòi sinh ra từ một đống uế tạp, thân xácđược hình thành từ sự dơ bẩn. Bên trong thân xác chất chứa những thứ ô uế tươngtợ như một hố phân. Chất ô uế thấm ra ngoài giống như dầu thấm qua một cái bìnhbằng đất. Thân xác là một ổ sâu bọ, không khác gì một đống rác. Thân xác giốngnhư một mụt nhọt, một căn bệnh hay một vết lở loét không chữa lành được, ghê tởmvà bạc nhược chẳng khác gì một xác chết.

ASUBHANUPASSANA[phép Quán bất tịnh : một phép tu tập của Phật giáo cổtruyền (nguyên thủy) hướng vào sự suy tư về 32 thành phần ô tạp của thân xác]do Philippe Cornu trích dẫn và dịch từ bản gốc.

Một vài giới luật về tính dụcdành cho người xuất gia

Parajika thứ nhất[kinh sáchtiếng Hán dịch chữ Parajika là Đại giới có nghĩa là các giới cấm quan trọng nhất]: Không được giao hợp tính dục.

Nếu một tỳ-kheo đưa cơ quan sinh dục của mình vào một cơquan sinh dục, vào hậu môn hay vào miệng của một người khác dù là đàn ông hay đànbà, hoặc đưa cơ quan sinh dục [của người khác]vào miệng mình hay hậu môn của mình, [hoặc đưa cơ quansinh dục của mình vào cơ quan sinh dục, hậu môn hay miệng] của một con thúhay một thây ma, dù chỉ sâu bằng chiều dài của một hạt mè, người tỳ-kheo ấy sẽmất hết cương vị của người tu hành.

Dù cho người tỳ-kheo quấn cơ quan sinh dục của mình bằngbăng vải, trong một cái bao, ăn mặc theo người thế tục, hoặc trần truồng, dù khôngcảm nhận một sự thích thú nào, cũng đều mất hết cương vị của người tu hành.

Mười trường hợp sau đây không phạm tội trọng đại : khingười tỳ-kheo đang ngủ và hoàn toàn không ý thức là mình đang giao hợp khi chuyệnđó xảy ra ; khi mình không đồng lõa ; khi mình bị bất tỉnh hay điên rồ ; trongtrường hợp bị ma quỷ ám ảnh và không chủ động được mình [...] ; hoặc trước khithệ nguyện giữ giới có phạm vào các hành động ấy.

Sanghadisesa thứ nhất[Sanghadisesalà các lỗi lầm phải đưa ra trước hội đồng tăng đoàn để xét xử và bị tạm thờikhai trừ] : Không được cố tình phóng thải tinh dịch.

Nếu người tỳ-kheo thủ dâm hay nhờ người khác thủ dâm đểphóng thải tinh dịch, phải đưa ra hội đồng tăng đoàn. Người tỳ kheo không được cốtình trân quý cơ quan sinh dục của mình, không được sử dụng nó như một công cụ,hoặc để lòng thòng. Nếu phóng thải tinh dịch dù thật vô nghĩa chỉ đủ cho con ruồiuống một ngụm [...] cũng phạm vào lỗi lầm sanghadisesa.

Thế nhưng, xuất tinh khi đang ngủ và đang nằm mơ, không cólỗi lầm gì. Nếu trong khi đại tiện tinh dịch són ra ngoài ý muốn của mình, khôngcó lỗi lầm gì. Khi giữ vệ sinh cơ quan sinh dục hoặc khi bôi thuốc, một chúttinh dịch nhỉ ra và mình không cảm nhận sự thích thú, không có lỗi lầm gì.

Sanghadisesa thứ tư: Không được đề nghị làm tình với mộtngười phụ nữ.

Nếu người tu hành nghĩ đến dâm dục và đề nghị với một ngườiđàn bà một cách sỗ sàng hành động giao cấu - với mình hay với một người khác - sẽbị đưa ra hội đồng tăng đoàn. Nếu người tu hành nói với một phụ nữ là các cô gáinào muốn tái sinh trong các điều kiện thuận lợi phải hiến thân cho mình sẽ phạmvào lỗi lầm sanghadisesa thứ tư.

THE MANUAL OF THE BHIKKHU(TẬP SÁCHGIÁO KHOA CỦA NGƯỜI TỲ-KHEO), Ven. DHAMMA SAMI, 2002, Philippe Cornu dịch từbản gốc tiếng Anh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2017(Xem: 8089)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thườngcũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
08/01/2017(Xem: 9176)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 9780)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
27/12/2016(Xem: 12849)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 5326)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 24707)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13440)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
16/07/2016(Xem: 10147)
Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn giáo nói chung và pháp phục Phật giáo nói riêng thể hiện tình trạng tôn giáo và xã hội (social and religious status), được sử dụng trong hai hình thức, mặc trong sinh hoạt thường nhật và mặc trong các nghi lễ tôn giáo, nói chung các dịp đặc biệt.
24/04/2016(Xem: 31855)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 15153)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567