Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Con đường chuyển hóa - Ứng dụng Bát chánh đạo trong cuộc sống (PDF)

12/12/201206:33(Xem: 12362)
Con đường chuyển hóa - Ứng dụng Bát chánh đạo trong cuộc sống (PDF)

TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
CON ĐƯỜNG CHUYỂN HÓA
ỨNG DỤNG BÁT CHÁNH ĐẠOTRONG CUỘC SỐNG
Thích Nhật Từ
Hiệu chỉnh phiên tả: Thu Nguyệt, Hồng Hà

NHÀ XUẤT BẢN HỒNG ĐỨC

Thích-Nhật-Từ---t22-con_duong_chuyen_hoa_ung_dung_bat_chanh_dao_trong_doi_song_co_bia-bia

THAY LỜI TỰA

“Con đường thánh tám ngành” vốn được xem là độc lộ an vui và giải thoát. Khái niệm độc lộ không chỉ được hiểu theo nghĩa đen là con đường duy nhất, con đường có hiệu quả nhất mà còn phải hiểu ở mức hành giả đi trên nó nếu có sự thực hành, ứng dụng, sẽ đạt được phước đức hữulậu, có được sự giải thoát, trở thành thánh.

Tính năng hiệu quảcủa Bát Chánh Đạo giúp cho hành giả vượt lên hai phong cách sống: Một bên là hưởng thụ các khoái lạc giác quan, đỉnh cao là đời sống tình dục vợ chồng; một bên là nỗ lực khổ hạnh, ép cơ thể, làm cho mất đi các hứng thú giác quan. Từ đó lầm nhận rằng, đây chính là con đường giải thoát. Bát Chánh Đạo giúp ta xa lánh hai thái cực, hai phong cách sống vừa nêu, giúp cho con người phát triển tầm nhìn chân chính, ứng dụng lòng tin vào tư duy chân chính.
Bát chánh đạo là con đường tâm linhcó khả năng giúp cho người phàm trở thành bậc Thánh. Trước hết là Chánh kiến, tức tầm nhìn chân chính, yếu tố đầu tiên trong con đường Thánh mà tất cả các bậc tâm linh phải đi qua.

Kinh tạng Pàli chia Chánh kiến thành hai cấp độ, Chánh kiến hữu lậu và Chánh kiếnvô lậu. Có đời sống đạo đức, phát triển các hành vi thiện, tạo ra phước báo hữu lậu, chẳng hạn việc giữ năm điều đạo đức, ba ngôi tâm linh,sau khi tái sanh làm người, được hưởng những phước đức mà mình đã tạo. Bên cạnh năm điều đạo đức, thực tập thêm mười điều lành, sau khi chết, theo cấp bậc dụng tâm và mức độ đầu tư về các việc thiện, hành giảcó thể tái sanh ở nhiều cảnh giới chư thiên khác nhau, tức là đời sống con người ngoài hành tinh.

Người thực tập và sống với Chánh tri kiến là người thể hiện vô ngã dưới hai góc độ, tâm lý học và nhận thức luận. Vô ngã về mặt nhận thức luận trước nhất là hiểu rõ vũ trụ không có nguyên nhân khởi thủy, dù đó là thượng đế hay duy vật, hay đất, nước,gió, lửa. Dù duy tâm cũng thấy rất rõ tiến trình tương quan duyên khởitạo ra sự vận hành, tồn tại, phát triển, hoại diệt… để một tiến trình mới có những bước tương tự.

Chánh tư duy là gì? Chữ Chánh, tiếng Pali gọi là Samma. Do giới hạn sự biểu đạt bằng tiếng Việt, chín chắn vàtích cực chỉ là phần rất nhỏ của Chánh tư duy. Kinh điển Pàli định nghĩa Chánh tư duy là tất cả mọi khởi tâm, tác ý của con người, không vướng mắc vào tư duy tham đắm, tư duy sát hại và tư duy si mê. Theo tâm thức học Phật giáo, mọi phiền não dẫn đến những nỗi khổ đều có gốc rễ trực tiếp từ ba độc tố tham, sân, si.

Tư duy cần được các hành giả Phật giáo chuyển hóa bao gồm tư duy giết hại, tư duy sân hận, tư duysi mê và tư duy tham ái. Ai nỗ lực để giải phóng cả bốn tà tư duy đượcxem là chánh tư duy. Chánh tư duy ở đây không chỉ là tư duy tích cực, tưduy chín chắn hay tư duy đúng đắn theo quy nạp, tổng hợp, diễn dịch, loại suy... mà còn là tư duy vượt trội, xứng đáng cho ta tu tập, để cóđược an vui, giải thoát trong đời.

Khi phân tích về Chánh Ngữ trong Bát Chánh Đạo, ta có được chìa khóa kinh nghiệm tự giúp cho mình và người tháo gỡ những bế tắc như tảng băng ngầm hay tảng băng nổi trong tương quan xã hội. Chánh ngữ trong Tứ Diệu Đế giống điều đạo đức thứ tư mà tất cả người Phật tử đều khích lệ thực tập, gồm có bốn phương diện.

Thứ nhất, tuyên bố những điều đúng sự thật. Thứ hai, nói những lời xây dựng và đoàn kết. Thứ ba, nói những lời có văn hóa và nhâncách. Thứ tư, nói những lời có lợi ích và giá trị. Phần lớn nếu không để ý ta sẽ tưởng rằng giới thứ tư chỉ là không được nói láo. Nếu bỏ mất đi ba phương diện còn lại quan trọng trong phương tiện truyền thông. Phần tuyên ngôn sự thật là bước đi đầu tiên, ba phương diện còn lại nếu thiếu thì truyền thông được xem là bế tắc.

Kinh Tăng Chi và kinhTrung Bộ có nhiều định nghĩa đề cập tới hành động chân chính. Nội dung thống nhất với nhau gọi làhành động chân chính, tức chánh nghiệp bao gồm: Không sát hại, không trộm cắp và không tà hạnh trong các dục. Định nghĩa đơn giản nhưng phần ứng dụng triển khai rất chi tiết trong các kinh. Phác họa theo cách nối kết với nhau giúp ta dễ dàng hình dung được bản chất của hànhđộng chân chính là nền tảng dẫn tới một hành động Thánh. Nói cách khác, không có hành động thánh của một thánh nhân màkhông bao gồm hành động chân chính.

Lập nghiệp chân chính quan trọng hơn khái niệm “Lạc nghiệp” trong cách diễn đạt dân gian “An cư lạc nghiệp”. An cư được hiểu là được ở yên, ổn định một chỗ không phảidi chuyển, không bị tác động bởi môi trường, điều kiện xung quanh dẫn đến nghề nghiệp ổn định, mang lại hạnh phúc. Sự lập nghiệp chân chính vốn đã bao gồm hai yếu tố này và cả những yếu tố khác như đạo đức, hiến pháp và nhận thức chân chính.

Ai sống đúng với chánh mạng mới có cơ hội thành tựu tám yếu tố Chánh đạo còn lại. Không có chánh mạng khôngcó chánh tri kiến và ngược lại. Người sống tà mạng chỉ có thể tà tư duyvì tư duy đó dựa trên tham, sân, si.

Chánh tinh tấn với ba phương diện bỏ ác, làm lành và thanh tịnh tâm được đức Phật mô tả qua bài kệ Pháp cú 183:

Không làm các điều ác
Dấn thân các việc lành
Giữ động cơ thanh tịnh
Là tinh hoa Phật dạy.

Yếutố Chánh tinh tấn là điểm quan trọng tạo ra một mối liên hệ mật thiết về phương diện nhân quả hành trì với năm yếu tố đầu: Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng. Hai yếu tố sau nhất điểm con đường tu tập là Chánh niệm và Chánh định. Trong bảy yếu tố của Bát Chánh Đạo, yếu tố nào thiếu đi Chánh tinh tấn thì con đường tu tập khôngđược kết quả. Mặc dù đứng ở vị trí thứ sáu nhưng tầm quan trọng của nó hỗ trợ cho các yếu tố còn lại dẫn đến sự thành công.

Chánh Niệm làcẩm nang đời sống tâm linh, là thực tập thường nhật của tất cả hành giả. Trong Bát Chánh đạo, quan trọng thứ nhất là Chánh kiến và Chánh tinh tấn, sau đó là Chánh niệm. Khi có Chánh niệm, phát ngôn của chủ thểnhận thức bao giờ cũng là ngôn ngữ từ ái, hòa hợp, văn hóa và lợi lạc. Khi có Chánh niệm đi đầu các hành động của thân không dính đến sát sanh,trộm cướp và tà hạnh, tránh được tất cả các tai nạn lao động, tai nạn giao thông.

Chánh Niệm là tiến trình điều chỉnh thái độ nhận thứcvà phản ứng của cảm xúc để giúp con người không rơi vào hai thái cực vừa nêu. Nhờ đó, hành giả loại trừ, vượt qua được lòng tham, sân; do vậynhổ lên được gốc rễ của si. Nói cách khác, khi thực tập Chánh niệm ta giải quyết được các phần bợn nhơ của thân và tâm ở mức độ khá đáng kể.

Chánhđịnh là tầng thứ 8 của tòa tháp 8 tầng, lệ thuộc rất nhiều vào 7 tầng tháp dưới. Để chánh định có mặt sớm, bền vững, cho đến lúc hành giả chứng đắc đạo quả giải thoát, 7 tầng đầu không thể không có.

Chánhđịnh không nên hiểu đơn thuần là tập trung tâm ý. Nó là sự huấn luyện tâm thức, trên nền tảng ba yếu tố thiện không tham, không sân, không si.

Nóitóm lại, Chánh định giải quyết vấn đề khổ đau. Chánh kiến bắt đầu vấn đềcủa đời sống tâm linh ở mức độ cao. Sáu chi phần còn lại là những hỗ trợ cần thiết không thể thiếu. Ai không hoàn tất được tất cả bảy điều chân chánh trong Bát chánh đạo khó có thể đạt được Chánh định. Hành giả dù tu pháp môn nào cần thực tập bảy yếu tố ban đầu, từ Chánh kiến cho đến chánh niệm, nhờ đó Chánh định mới có thể đạt được ở mức độ cao nhất. Bỏ qua bảy yếu tố chân chính đầu, không thể có được chánh định, đó là điều mà chúng ta phải tin. Nhờ có chánh định, tuệ giác phát sinh, hành giả đạt được giải thoát.

TT. Thích Nhật Từ
Tổng Biên tập
Tạp chí và Tủ sách Đạo Phật Ngày Nay

MỤC LỤC

Thay lời tựa
I. Chánh kiến: Tầm nhìn và giá trị
Hoang tưởng và sợ hãi
Hai loại chánh kiến
Điều kiện chánh kiến
Hiểu sâu về nhân quả
Im lặng thánh
Thực tập chánh tri kiến
Hiểu rõ vô thường
Giá trị của chánh kiến
II. Chánh tư duy
Vượt trên tư duy tích cực
Ý nghĩa chánh tư duy
Tà tư duy sát hại
Tà tư duy sân hận
Tư duy mê tín dị đoan
Tư duy tham ái
III. Chánh ngữ: Lời nói từ ái và xây dựng
Truyền thông qua lời nói
Cái giá của nói giỡn
Lời nói hòa ái
Lời nói có văn hóa
Nói trong chánh niệm
Nói sự thật đúng lúc
Tình huống nên nói
Lời nói đúng và có giá trị
IV. Chánh nghiệp: Hành động chân chính và hành động thánh
Khái niệm chánh nghiệp
Hành động không tác ý
Hành động nào cũng có hậu quả
Cầu nguyện
Hồi hướng công đức
Không giết hại
Tôn trọng sự sống
Làm từ thiện
Không trộm cắp
Cuộc sống người nghèo Ấn Độ
Ban tặng chia sẻ
Tùy hỷ
Không tà hạnh
Văn hóa hôn nhân ở ấn độ
Phương pháp không tà hạnh
Chuyển hóa tình dục
V. Chánh mạng: Lập nghiệp chân chính
Khái niệm lập nghiệp chân chính
Lấy trí tuệ làm sự nghiệp
Buôn bán vũ khí
Buôn bán người
Bán thú và bán thịt
Bán chất kích thích
Bán chất độc
Nghề tam tông miếu
Cúng dường làm Phật sự
Ăn chơi sa đọa
Hoài bão
Nỗ lực tinh tấn
Tinh thần trách nhiệm
Thẩm sát
Phước báo lập nghiệp
Giá trị của lập nghiệp chân chính
VI. Chánh tinh tấn
Tầm quan trọng chánh tinh tấn
Bốn phương pháp hành trì
Loại bỏ những khổ đau
Ác chưa làm không cho phát sanh
Không cho điều ác phát sanh
Điều thiện đã làm tiếp tục phát triển
Phát triển các điều thiện
Làm thiện trên tinh thần ba la mật
Điều thiện chưa làm phải nỗ lực phát huy
Tạo điều kiện cho điều thiện phát sanh
Phát triển những điều thiện chưa có
Tạo điều kiện cho điều thiện thành tựu trọn vẹn
VII. Chánh niệm: Nền tảng các pháp môn
Giá trị của chánh niệm
Chánh niệm nội tâm
Thực tập chánh niệm
Chuyển hóa từ chánh niệm
Trung hòa cảm xúc
Thực tập tứ niệm xứ
Quán thân bất tịnh
Quán cảm giác
Làm chủ cảm xúc
Chánh niệm về tâm
Quán pháp vô ngã
VIII. Chánh định
Vai trò của chánh định
Nhất tâm quán tưởng
Loạn động tư tưởng
Thực tập chánh định
Những hỗ trợ chánh định
Kết quả thực tập chánh định
Thiền quán trên những đề mục
Các đề mục về tử thi
Mười đề mục về niệm
Quán tứ vô lượng tâm, thức vô biên xứ, phi tưởng phi phi tưởng xứ
Quán về thực phẩm
Năm chi phần của định

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8135)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16462)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12447)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19893)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4421)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4308)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 5023)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4255)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4235)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11570)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567