Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự phát triển giáo dục Phật giáo

27/05/201214:43(Xem: 6574)
Sự phát triển giáo dục Phật giáo
SỰ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHẬT GIÁO
TT. Thích Giác Hiệp

Giáo dục Phật giáo là lý tưởng hoàn thiện xã hội và con người. Lý tưởng này vẫn được truyền thừa qua nhiều thế hệ nhằm đem lại hài hòa, thịnh vượng và hạnh phúc cho con người, xã hội. Đức Phật chẳng những là một triết gia lỗi lạc, một đạo sư chuẩn mực mà còn là một nhà giáo dục vĩ đại.

Giáo dục làm thăng tiến tâm thức và phát triển xã hội. Vai trò của Phật giáo rất quan trọng trong giáo dục, vì Phật giáo chủ trương hoàn thiện tâm thức, và xã hội. Con người có khả năng nhận thức và lý luận. Tâm con người là phương tiện cơ bản để sinh tồn, và phương tiện để đạt được tri thức. Con người không thể sống chỉ cần những nhu cầu vật chất đơn giản mà còn cần sự tiến triển tinh thần. Sự tiến triển tinh thần này gọi là tiếp thu tri thức hay giáo dục. Nếu không có khả năng giáo dục và được giáo dục nhân loại không có được những thành tựu như ngày nay. Giáo dục đem lại 4 điều lợi ích cho con người:

1) Có được tri thức cần thiết cho sự sinh tồn.

2) Phát triển khả năng của con người.

3) Hướng dẫn con người cách sống.

4) Giúp con người nhận rõ được lý tưởng cá nhân.

1. Hệ thống giáo dục Ấn độ trước Phật giáo :

Hệ thống giáo dục thời Ấn độ cổ đại mang màu sắc tôn giáo. Phật giáo chịu ảnh hưởng một phần của hệ thống giáo dục cổ đại Ấn độ. Lịch sử hệ thống giáo dục Ấn độ cổ đại bắt nguồn rất sớm, vào khoảng trước năm 2000 TTL. Mục đích giáo dục thời cổ đại đặt trọng tâm vào sự phát triển hài hoà con người. Thân, tâm, trí tuệ và tinh thần được cho là sự hình thành con người, giáo dục phát triển toàn bộ những điểm này. Giáo dục giai đoạn này mang tính phổ biến cho 3 giai cấp, bà - la - môn, Sát - đế - lợi, thương gia.1

2. Hệ thống giáo dục Phật giáo:

Sự phát triển giáo dục Phật giáo có thể chia ra làm 4 giai đoạn:

a. Giai đoạn 1: giai đoạn đức Phật còn tại thế. Đây là giai đoạn thiết lập Tăng đoàn và Tinh xá.

b. Giai đoạn 2: từ thế kỷ thứ 5 TTL đến thế kỷ thứ 3 TTL là giai đoạn hình thành Thánh điển. Đây là giai đoạn diễn ra một số cuộc kiết tập Thánh điển. Nội dung giáo dục bao gồm giáo dục đạo đức. Những bộ Thánh điển được hình thành như: Giới kinh, Chuyện tiền thân, Trưởng lão tăng kệ, Trưởng lão ni kệ, Pháp cú… Các vị Sa-di được giảng dạy và học thuộc những bộ này.

c. Giai đoạn thứ 3: từ thế kỷ thứ 3 TTL đến thế kỷ thứ 4 TL. Thời gian trôi qua nhiều thay đổi diễn ra trong hệ thống giáo dục Phật giáo. Giai đoạn này hầu như hệ thống giáo dục Phật giáo đã thay thế cho hệ thống giáo dục Bà-la-môn giáo. Tu viện trở thành những trung tâm giáo dục chính thức. Rất nhiều người không phải Phật giáo cũng tham gia vào tu viện để tham học. Một số tác phẩm được giảng dạy trong tu viện để phổ biến giáo dục đạo đức, như: (a) Về nội điển gồm:

Kinh, luật, luận, (b) Về ngoại điển gồm: Vệ -đà, yoga, âm vị học, phép làm thơ, văn phạm, thiên văn học….

d. Giai đoạn thứ 4 từ thế kỷ thứ 4 TL đến thế kỷ thứ 12 TL: Cuối thế kỷ thứ 4 TL, tu viện Phật giáo trở thành những trung tâm giáo dục quan trọng giống như hệ thống đại học thời hiện đại, thu hút sinh viên khắp nơi, trong và ngoài Ấn Độ.2

Hệ thống giáo dục của Phật giáo và Bà-la-môn giáo không khác nhau nhiều. Bà-la-môn giáo tiêu biểu cho hệ thống giáo dục truyền thống của Ấn độ. Cả hai hệ thống có những lý tưởng, phương pháp giống nhau. Có một số điểm giống nhau giữa hai hệ thống này:

a. Cả hai hệ thống đề cập đến giáo đoàn phải có cuộc sống thanh tịnh, độc thân. Cả hai hệ thống chủ trương rằng tham đắm là nguyên nhân khổ đau.

b. Quá trình nhập học hầu như giống nhau. Cả 2 hệ thống đều tiến hành một số nghi thức nhập học giống nhau.

c. Phương pháp giảng dạy cả hai hệ thống giống nhau, học thuộc các bài học, chú ý phát triển đạo đức, xã hội, bàn thảo, tranh luận.

d. Phương pháp trị phạt cả hai đều giống.3

Tuy nhiên, cũng có một vài điểm khác nhau giữa hai hệ thống giáo dục này.

a. Hệ thống giáo dục Bà - la - môn đào tạo học trò sau khi hoàn tất việc học tham gia vào xã hội. Hệ thống giáo dục của Phật giáo hướng học trò sống cuộc sống tu viện. Do vậy, theo quan điểm thế tục, giáo dục Bà-la-môn toàn diện hơn. Vì một người sau khi được giáo dục trong hệ thống này có thể bước chân vào cuộc sống thực tế không bị bỡ ngỡ.

b. Hệ thống giáo dục của Bà-la-môn giáo dựa và cơ sở giai cấp, nhưng trong Phật giáo ngay cả những người giai cấp thấp cũng có thể tham gia. Phật giáo chủ trương phá bỏ giai cấp.

c. Việc sử dụng ngôn ngữ, hệ thống giáo dục của Bà - la - môn giáo chỉ sử dụng Sanskrit, ngược lại Phật giáo tự do sử dụng Pāli, Sanskrit hay ngôn ngữ địa phương. Chính đức Phật chủ trương giáo pháp nên được thuyết giảng bằng ngôn ngữ của mọi người.

d. Hệ thống giáo dục của Bà - la - môn giáo mang hình thức gia đình, thầy như người cha và học trò là thành viên của gia đình. Học trò tự nhiên trở nên ít. Quy tắc nghiêm khắc việc học vững chắc hơn. Tu viện Phật giáo thu hút lượng học trò ngày một đông và giống như hình thức trường đại học, cả hàng ngàn sinh viên.4

3. Tu viện Phật giáo là trung tâm giáo dục

Tu viện Phật giáo trở thành những trung tâm giáo dục dành cho tu sĩ Phật giáo và người thế tục. Hệ thống giáo dục của Bà-la-môn giáo trước đó hoàn toàn bị lu mờ. Bản chất toàn diện của hệ thống giáo dục Phật giáo đã cung cấp mọi nhu cầu tri thức cho giới Phật giáo và các nhà nghiên cứu Phật học. Những trung tâm giáo dục như thế thường được vua, quan và giới thương gia nhiệt tình ủng hộ về mọi mặt, tu và học. Những trung tâm này phát triển giống như những trường đại học thời hiện đại.5Một số tu viện Phật giáo phát triển theo hình thức này:

a. Đại học Nālandā:

Ở Ấn độ cổ đại, có thể nói đại học Nālandā là trung tâm giáo dục nổi tiếng nhất của Phật giáo. Ngài Nghĩa Tịnh, ngài Huyền Trang từng sống và tham học tại đại học Nālandā. Theo ghi chép của 2 ngài đại học này có hơn 3.000 sinh viên. Có khi số lượng sinh vi ên lên 10.000. Tứ sự đều được cung cấp miễn phí cho sinh viên. Sinh viên đến từ mọi miền của Ấn độ và ngay cả nước ngoài như Tây tạng, Trung quốc, Triều tiên… Luật nhập học rất nghiêm khắc chỉ có những ai thông thạo những môn học cổ và hiện đại mới được nhập học. Như vậy đây là một học viện ở mức độ nâng cao. Khoảng 1.500 giáo sư phụ trách 8.500 sinh viên. Hàng ngày có đến trăm bài thuyết giảng. Nhiều vị tổ sư lỗi lạc của Ấn độ hoặc nước ngoài xuất thân từ đây, như: ngài Đề-bà, Giới Hiền, Hộ Pháp, Pháp Hiển, Huyền Trang, Nghĩa Tịnh... Hệ thống thư viện của Đại học rất phong phú.6

b. Đại học Valabhī

Đại học này có thể nói là đối thủ của đại học Nālandā. Đại học toạ lạc ở Valabhī, kinh đô của vương triều Maitraka (475-775). Đại học này cũng được vương triều ủng hộ. Số lượng sinh viên đông tương đương với đại học Nālandā.7

c. Đại học Vikramaśilā:

Đại học này cũng có vị trí như hai đại học trên. Hội đồng điều hành đại học này cũng điều hành đại học Nālandā. Do vậy nên có sự trao đổi giáo sư giữa hai đại học này. Ngoài ra còn có một số tu viện Phật giáo khác phát triển theo hình thức đại học trong thời đại này.

Học viên trong các đại học được phân chia ra làm nhiều lớp tùy theo trình độ khác nhau. Lớp thấp nhất bao gồm những vị đọc tụng kinh, lớp kế tiếp bao gồm những vị thông thạo luật, bàn luận luật với nhau, lớp cao hơn nữa là những vị chuyên về luận, luyện tập thuyết giảng trước khi giảng chính thức. Và lớp cao nhất là những vị thực hành bốn loại thiền định. Ngoài ra có những vị xuất sắc về thế học. Như vậy chúng ta thấy rằng trong hệ thống giáo dục Phật giáo từ ban đầu đã nhấn mạnh việc tranh luận (debate) để cho các Tỳ-kheo có được những kinh nghiệm rèn luyện cần thiết trước khi đi truyền bá giáo pháp. Thật sự trong suốt 49 năm thuyết pháp độ sanh đức Phật đã gặp nhiều cuộc tranh luận, giải thích với Bà-la-môn, Kỳ-na giáo và những câu hỏi được hội chúng đặt ra.8

Chúng ta thấy thời kỳ đức Phật mỗi vị đệ tử của ngài chuyên về từng lãnh vực, như ngài Ưu-ba-li chuyên về luật tạng, ngài Xá-lợi-phất có trí tuệ xuất sắc… Tiếp nối truyền thống đó, hệ thống giáo dục trong thời kỳ phát triển đã huấn luyện học trò theo từng lãnh vực riêng biệt phù hợp với khả năng và năng khiếu của từng người. Như thế mới phát triển được tiềm năng của mỗi người.

Nếu không chú trọng đến năng khiếu của từng người, chúng ta sẽ làm lãng phí khả năng của họ. Giáo dục Phật giáo hướng vào việc nâng cao đạo đức con người và đồng thời cũng đào tạo một số học giả lỗi lạc cho xã hội. Giáo dục Phật giáo nhằm tạo ra một xã hội lý tưởng thông qua Phật pháp.

4. Kết luận:

Từ thế kỷ thứ 3 TTL đến thế kỷ 12 TL nhiều tu viện Phật giáo trở thành trung tâm giáo dục Phật giáo để truyền bá giáo pháp. Mọi phương tiện sinh hoạt tại những trung tâm này được cung cấp miễn phí cho sinh viên. Cả cuộc sống của sinh viên và tu sĩ đều tuân thủ theo luật lệ tu viện. Các môn học bao gồm tôn giáo và thế tục, chỉ trừ những môn liên quan đến quân sự, phục vụ quốc gia không được dạy.

Giáo dục Phật giáo là lý tưởng hoàn thiện xã hội và con người. Lý tưởng này vẫn được truyền thừa qua nhiều thế hệ nhằm đem lại hài hoà, thịnh vượng và hạnh phúc cho con người, xã hội. Đức Phật chẳng những là một triết gia lỗi lạc, một đạo sư chuẩn mực mà còn là một nhà giáo dục vĩ đại.

TT. THÍCH GIÁC HIỆP

Giảng viên Học Viện Phật giáo Việt Nam tại Hà Nội

Tham khảo:

1. Cubberley, Ellwood P., The History of Education, Blackmask.com, 2003 (Stanford University, 1920)

2.Dewey, John, Democracy and Education, Blackmask Online, 2003

3. Dutt, Nalinaksha., Early Monastic Buddhism, Calcutta: Firma KLM Private Limited, 1980.

4. Dutt, Sukumar, Buddhist Monks and Monasteries of India: Their History and Their Contribution to Indian Cuture , Delhi: Motilal Banarsidass Publishers, 2000.

5. Ghosh, Suresh Chandra, The History of Education in Ancient India: c. 3000 BC to AD 1192, New Delhi: Munshinram Manoharlal Publishers, 2001.

6. Sharma, S. N., Buddhist Social and Moral Education, Delhi: Parimal Publications, 1994.


1S. N., Sharma, Buddhist Social and Moral Education (Delhi: Parimal Publications, 1994), 38.

2Ibid: 164ff

3Ibid: 44

4Ibid: 44f.

5S. C. Ghosh, The History of Education in Ancient India: c. 3000 BC to AD 1192 (New Delhi: Muns hinram Manoharlal Publis hers , 2001), 128.

6Ibid: 49

7S. Dutt, Buddhist Monk s and Monasteries of India: Their History and Their Contribution to Indian Cuture (Delhi: Motilal Banars idas s Publis hers, 2000), 224 ff.

8S. C. Ghosh, The History of Education in Ancient India: c. 3000 BC to AD 1192 (New Delhi: Muns hinram Manoharlal Publis hers, 2001), 130 f.

Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2013(Xem: 16518)
Cánh cửa của thế kỷ 20 sắp khép lại, tất cả chúng ta đều nhận thấy rằng thế giới đã trở nên nhỏ hơn, loài người trên hành tinh đã trở thành một cộng đồng lớn, các liên minh về chính trị và quân sự đã tạo ra những khối đa quốc gia, làn sóng của thương mại và công nghiệp thế giới đã cho ra nền kinh tế toàn cầu, những phương tiện thông tin của thế giới đã loại bỏ những chướng ngại về ngôn ngữ và chủng tộc.
10/12/2013(Xem: 21978)
Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với câu chuyện đời của Đức Phật. Chúng ta biết rằng thái tử Siddhattha đã rời bỏ cung điện lộng lẫy của vua cha, để bắt đầu cuộc sống không nhà của người lữ hành lang thang đi tìm con đường tâm linh, và sau nhiều năm tu hành tinh tấn, Ngài đã đạt được giác ngộ khi đang nhập định dưới gốc cây bồ đề. Sau khi xả thiền, Đức Phật đã đi đến thành phố Benares, giờ được gọi là Varanasi. Ở đó, trong Vườn Nai, lần đầu tiên Ngài thuyết pháp về những gì Ngài đã khám phá về con đường đi đến hạnh phúc toàn vẹn. Lời dạy của Đức Phật rất đơn giản nhưng sâu sắc.
08/12/2013(Xem: 26027)
Khi thực tập thiền Lạy, ta nhìn sâu vào thân ta để thấy rằng thân này không đích thực là ta, không phải là vật sở hữu của ta. Trong thân này không có cái gì gọi là cái ta riêng biệt để bám víu. Tuy nhiên, thân thể ta là một hợp thể rất mầu nhiệm, nó chứa đựng cả tinh hà vũ trụ bao la. Ta thấy được tất cả các thế hệ tổ tiên, con cháu của ta đều có mặt trong thân ta. Ta cảm nhận sự có mặt của họ trong từng tế bào của cơ thể. Họ luôn có mặt trong ta và chung quanh ta. Họ cũng như các yếu tố khác đã kết hợp lại để làm nên sự sống của ta. Ta có thể tiếp xúc với những yếu tố như đất, nước, lửa và không khí - bốn đại trong ta và ngoài ta. Ta thấy ta như một con sóng trên mặt đại dương. Con sóng này được hình thành bởi các con sóng khác.
03/12/2013(Xem: 52157)
Người ta thường nói :"Ăn cơm có canh, tu hành có bạn". Đối với tôi, câu nói này thật là quá đúng. Ngày nhỏ chưa biết gì nhưng từ khi làm Huynh Trưởng Gia Đình Phật Tử tôi đã thấy ích lợi của một Tăng thân. Chúng tôi thường tập trung thành từng nhóm 5,7 người để cùng nhau tu học. Giai đoạn khó khăn nhất là sau 75 ở quê nhà. Vào khoảng 1985, 86 các anh lớn của chúng tôi muốn đưa ra một chương trình tu học cho các Huynh Trưởng trong Ban Hướng Dẫn Tỉnh và những Htr có cấp nên đã tạo ra một lớp học Phật pháp cho các Htr ở Sàigòn và các tỉnh miền Nam. Nói là "lớp học" nhưng các Chúng tự học với nhau, có gì không hiểu thì hỏi quý Thầy, các Anh và kinh sách cũng tự đi tìm lấy mà học. Theo qui định của các Anh, Sàigòn có 1 Chúng và mỗi tỉnh có 1 Chúng. Chúng tu học của chúng tôi (Sàigòn) có tên là Chúng Cổ Pháp và phải thanh toán xong các bộ kinh sau đây trong thời gian tối đa là 3 năm:
29/11/2013(Xem: 20720)
Chúng tôi chọn viết đề tài dừng tâm sanh diệt là nhân có một Phật tử than: Trong đời tu hành của con có một chướng ngại mà con không vượt qua được, đó là những niệm tưởng lăng xăng. Nó quấy rầy luôn, cả những lúc nghỉ ngơi cũng không yên.
25/11/2013(Xem: 16760)
Nhìn vào tín ngưỡng Phật giáo nhiều người thường thắc mắc tại sao lại có nhiều "thứ" đến thế! Thật vậy Phật giáo có rất nhiều học phái, tông phái, chi phái..., một số đã mai một, thế nhưng một số vẫn còn đang phát triển và đồng thời cũng có nhiều chuyển hướng mới đang được hình thành. Đối với một người tu tập Phật giáo thì sự kiện ấy thật hết sức tự nhiên: tất cả mọi hiện tượng trong thế giới đều chuyển động, sinh sôi nẩy nở và biến đổi không ngừng. Nếu nhìn vào các tín ngưỡng khác thì ta cũng sẽ thấy cùng một hiện tượng như thế.
06/11/2013(Xem: 15094)
Một trong những vấn đề cổ xưa nhất thách thức nhân loại là câu hỏi về đời sống sau khi chết. Chúng ta đã từ đâu đến và sau khi chết sẽ đi về đâu? Cùng với đó chúng ta tự hỏi mục đích của đời sống tốt là gì. Trước hết, hầu hết mọi người đều đồng ý rằng sống tốt thì khó hơn sống xấu và nếu không có những lý do thật sự tốt chúng ta dĩ nhiên sẽ thích làm điều dễ. Theo suy nghĩ của tôi, đây là lý do tại sao các tôn giáo có mặt và đi cùng với chúng là những khái niệm về thiên đường và địa ngục.
30/10/2013(Xem: 34683)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
26/10/2013(Xem: 53671)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
19/10/2013(Xem: 10626)
Làm người biết thương yêu và bảo vệ hành tinh sống của chúng ta thì mớ thật sự làm người, mới xứng đáng làm người. Có làm người như vậy mới xứng đáng là người có đạo đức hiếu sinh. Còn ngược lại là phá hoại sự sống của nhau, làm đau khổ cho nhau. Phải không hỡi các bạn? Đạo Đức Hiếu Sinh! Có bốn chữ rất đơn giản, nhưng hành động của nó cao thượng và đẹp đẽ tuyệt vời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567