Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đầu thế kỷ XXI nhớ ngày Đức Phật Đản Sinh

28/04/201113:33(Xem: 5996)
Đầu thế kỷ XXI nhớ ngày Đức Phật Đản Sinh
phat dan sanh2
ĐẦU THẾ KỶ XXI

NHỚ NGÀY ĐỨC PHẬT ĐẢN SINH

Nguyễn Tường Bách

Một điều tra xã hội học mới nhất tại Đức cho thấy, tình trạng bạo lực trong tuổi học sinh đang gia tăng một cách đáng sợ. Ngày nay trường học là nơi mà cảnh bạo lực giữa người và người diễn ra hàng ngày và mức độ tàn bạo đã lên đến mức báo động.

Thông tin này tuy làm người ta lo ngại nhưng không có gì bất ngờ. Đó cũng là tình hình chung của các nước Phương Tây trong thế kỷ này. Chúng ta đang ở trong một thời đại mà lòng nhẫn tâm, hành vi bạo lực trong xã hội đã phát triển lên một mức độ khủng khiếp. Từ tuổi thơ ấu trong vườn trẻ, những mầm non của tương lai đã lâm vào cảnh cạnh tranh lẫn nhau, đã chịu áp lực của cô giáo, của cha mẹ, của thời gian. Trong tuổi thanh thiếu niên, con người đã bắt đầu học thói nhẫn tâm của sự thành công, của sự tuyển lọc, của quy ước xã hội. Đó cũng là thời điểm của những cảnh bạo lực trong xã hội, trong tin tức hàng ngày, phim ảnh từ những cuộc chiến tác động mãnh liệt và để lại dấu ấn không thể xoá nhoà trong tâm trí trẻ thơ. Thanh niên lớn lên, hít thở không khí lạnh lùng và tàn bạo giữa người với người, con người bị quy định bởi nền “văn hoá” đó và cho đó là quy luật hiển nhiên của cuộc sống.

Những điều trên thật ra không có gì mới trong xã hội hiện đại của loài người. Thế nhưng đến thế kỷ XXI, tình trạng bạo lực giữa người với người xem ra đã đạt quy mô toàn cầu và bước qua một mức độ khác hẳn. Như chúng ta đều biết, từ trước Công nguyên đến nay đã diễn ra vô số cuộc thảm sát và chiến tranh tại nhiều nơi trên thế giới, như ở Trung Quốc, châu Âu, Trung Đông, Nga, Campuchia, Việt Nam…Dù mọi cuộc chiến tranh và hành vi tàn bạo đều gây đau khổ nhưng dù sao quy mô của chúng cũng còn được giới hạn một cách cục bộ, trong một số quốc gia nhất định. Bước qua thế kỷ XXI, cùng với khuynh hướng toàn cầu hoá của chính trị và kinh tế, các mâu thuẫn quốc tế và hậu quả của chúng là bạo lực, cũng đã mang tính chất liên quốc gia.

Nếu trong quá khứ, nguyên nhân của các cuộc thảm sát và chiến tranh phần lớn là do các tranh chấp về quyền lực và lãnh thổ thì thế kỷ XXI dường như cho thấy, mầm mống của mọi mâu thuẫn là sự tranh chấp về văn hoá và ý thức hệ của hai tôn giáo lớn: Thiên chúa giáo và Hồi giáo. Nằm trong ảnh hưởng của ý thức hệ này là, một bên là các quốc gia hùng mạnh về kinh tế và quân sự, bên kia là nhiều nước nghèo nhưng với số lượng quần chúng to lớn và sẵn sàng hy sinh. Cả hai bên đều có ảnh hưởng trên mặt toàn cầu và cả hai đều không thể nhượng bộ nhau. Đó chính là hiểm hoạ trong thế kỷ này của chúng ta.

Tại sao cả hai ý thức hệ ấy không thể nhượng bộ? Điều tưởng như bất ngờ nhưng hoàn toàn dễ hiểu là, cả hai đều theo chủ nghĩa độc thân. Theo đó, chỉ có một Thượng đế và tất cả mọi người phải quy phục vị Thượng đế của tôi. Cũng từ một vùng đất hết sức nhỏ bé tại Trung Đông mà lịch sử đã sản sinh ba nên tôn giáo có chủ trương độc thần, nếu ta kể thêm Do Thái giáo. Cũng từ đó, suốt gần 15 thế kỷ qua, vô số cuộc chiến tranh nhân danh tôn giáo đã xảy ra và ngày nay mức độ thù hận giữa người và người lên đến mức độ đáng sợ. Cuộc chiến tranh Iraq bắt đầu cách đây hơn một năm là đỉnh cao tạm thời của lòng thù hận đó. Và mới đây, người ta không thể hiểu được những hành vi tàn bạo và sỉ nhục đối với tù nhân Hồi giáo, nếu ta không nhớ lại nguyên nhân sâu xa nhất của cuộc chiến tranh là sự kỳ thị tôn giáo. Những sự tra tấn dã man đó đều là biểu hiện muốn chà đạp tâm thức tôn giáo của người theo đạo Hồi, được thực hiện một cách cố ý của binh sĩ Mỹ và lãnh đạo của họ.

Một tâm thức tôn giáo đã bị miệt thị, nhất là khi nó được quy định bởi một ý thức hệ độc thần, cuộc chiến này giữa hai ý thức hệ chỉ có thể trở nên tàn bạo hơn, khủng khiếp hơn. Như S.P.Hungtington trong tác phẩm The Clash of Civilizations (Sự xung đột giữa các nền văn minh) tiên đoán, thế kỷ XXI sẽ là thời đại của độc thần. Trong cuộc chạm trán này, nhiều người phương Tây tin rằng họ sẽ thắng, với lực lượng quân sự và kinh tế hùng hậu. Thủ tướng Ý Berlusconi đã nói thẳng: “Nền văn minh của chúng ta ưu việt hơn”. Có thể các nước phương Tây sẽ đè bẹp đối thủ, nhưng nhiều người đang quên một điều, đó là trong nội bộ của họ, trong trường học, trong gia đình, trong vườn trẻ, trong mỗi tế bào của chính xã hội họ…, lòng bạo lực đang gia tăng một cách khốc liệt. Con em của họ đang đối xử với nhau đúng như những điều họ đang làm với những người khác, tại một nơi họ nghĩ chẳng ai biết đến, trong sa mạc vắng người hay trong nhà tù kín đáo.

Trong bối cảnh tối tăm đó của thế giới, ta nhìn lại ngày Đản sinh của Đức Phật với một niềm mừng vui và kính ngưỡng to lớn. Lạ thay, Đức Phật ra đời trước các tôn giáo nọ cả ngàn năm nhưng Ngài không tuyên giảng Thượng đế thần linh, không nói đến độc thần, không chấp nhận uy quyền tâm linh, không đề cao việc tranh chấp đúng sai, không đi rao giảng và truyền đạo một cách bừa bãi. Ai vấn hỏi thì Ngài trả lời. Ai nói chuyện phù phiếm thì Ngài im lặng. Ai rút lui khỏi Tăng già thì Ngài chấp nhận. Thế gian có tranh chấp với Ngài nhưng Ngài không tranh chấp với thế gian. Ngài chỉ chăm chú vào một điều duy nhất: tuyên bố đời này là khổ và chỉ bày những phương pháp cách diệt khổ. Ngài nêu rõ, một trong những nguyên nhân của khổ là lòng sân hận.

“Đức Thế Tôn giới thiệu có bốn hạng người ở đời: (1) Hạng tự hành khổ mình, (2) Hạng hành khổ người, (3) Hạng tự hành khổ mình và hành khổ người, (4) Hạng không tự hành khổ mình và hành khổ người” (Trung Bộ kinh, bài 51, bản dịch của Hoà thượng Thích Chơn Thiện).

Thời đại của chúng ta là thời đại do hạng người thứ hai và thứ ba cầm quyền. Đó là những người sẵn sàng hành hạ người khác vì tham vọng về ý thức hệ, của cải và quyền lực của mình. Và hậu quả hiển nhiên là con cháu của họ cũng rơi vào lòng ham thích bạo lực, tìm niềm vui trong sự hành hạ người khác mà kết quả điều tra ở đầu bài này đã xác định.

Nhìn thế giới và tự nhìn mình, ta dễ có một nỗi mừng run và tri ân cuộc đời. May mắn thay, ta không rơi vào một ý thức hệ độc thần, không thể thấy niềm vui trong sự hành hạ. Với tính cách con người, có lẽ ta chưa có lòng từ bi bao la như các vị giác ngộ, nhưng hành vi của chúng ta không thể nhẫn tâm, tàn bạo, không thể chà đạp lên niềm tin và hạnh phúc của người khác. Hãy sống để người khác cùng sống. Hãy vui để người khác vui trong niềm tin và hạnh phúc của họ. Sống như thế là chúng ta bước vào phạm vi của hạng người thứ tư, hạng người không tự hành khổ mình và không hành khổ người.

Trong những năm đầu của thế kỷ XXI này, ngày Đản sinh Đức Phật lại trở về và thực sự có một ý nghĩa kỳ diệu.

(TC. Văn hóa Phật giáo số 16 15-5-2006)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/08/2010(Xem: 3896)
Trong thời gian gần đây, nhiều sách đã được viết về đề tài kinh tế và lý thuyết kinh tế, tất cả đều từ quan điểm Tư Bản hay Xã Hội chủ nghĩa. Không có một hệ thống nào lưu ý đến hay xét đến sự phát triển nội tâm của con người, một yếu tố quan trọng trong sự phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 63001)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 7469)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 5692)
Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức.
28/08/2010(Xem: 59151)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
28/08/2010(Xem: 10392)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
27/08/2010(Xem: 24306)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
17/08/2010(Xem: 8585)
Tôi luôn luôn tự xem mình như một nhà sư Phật Giáo đơn giản. Tôi cảm thấy như thế mới là tôi thật. Tôi cảm thấy rằng Đạt Lai Lạt Ma với cương vị nhà cầm quyền thế gian là một định chế nhân tạo. Khi nào người ta còn chấp nhận Đạt Lai Lạt Ma, họ sẽ chấp nhận tôi. Nhưng, là một vị sư là một điều thuộc về tôi. Không ai có thể thay đổi điều đó. Tận sâu thâm tâm, tôi luôn luôn tự xem mình là một nhà sư, ngay cả trong các giấc mơ của tôi.
22/07/2010(Xem: 13355)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
20/07/2010(Xem: 17044)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]