Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đạo Phật Và Môi Trường

01/08/201102:33(Xem: 3339)
Đạo Phật Và Môi Trường
canhdep_1aĐẠO PHẬT VÀ MÔI TRƯỜNG
Sống hòa hiệp với thiên nhiên là một sự thực hành thiết yếu của Đạo Phật

Tác giả: Nick Wallis giải thích tại sao
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển / 16-11-2010

Khi chúng ta nhìn vào những kinh luận truyền thống của Đạo Phật dường như có rất ít liên hệ trực tiếp với những gì ngày nay gọi là khái niệm môi trường hay sinh thái học. Khi chúng ta thể nhập một cách thông minh vào thế giới mà Đức Phật đã sống và hành đạo, lý do của điều này sẽ trở nên rõ ràng hơn. Khung cảnh nổi bật lên là một nền văn hóa sống trong sự hòa hiệp vô cùng sâu xa với môi trường, nếu đôi khi phải nói là trong sự thông cảm của lối sống Phật Giáo, và một cuộc “Vận Động Môi Trường” đơn giản là không cần đến. Sự liên kết mạnh mẽ rằng con người cảm nhận với môi trường được soi sáng một cách đặc biệt trong câu chuyện về cuộc đời của Đức Phật, mà trong ấy tất cả những sự kiện nổi bật nhất xãy ra ở miền quê và được phối hợp với cây cối: Ngài đã đản sinh tại vườn Lâm Tỳ Ni khi Mẹ Ngài với nắm một cành cây Vô Ưu, kinh nghiệm của Ngài vào lúc thiếu niên trong thể trạng thiền quán dưới cây tăng táo, Ngài giác ngộ dưới cây Bồ Đề, và Ngài đã niết bàn giữa những cây Ta La Song Thọ. Do thế, trong sự tầm cầu để áp dụng Phật Pháp vào trong lĩnh vực môi trường, chúng ta phải tìm kiếm những nguyên tắc nền tảng thích hợp đến chính thế giới khác biệt này mà chúng ta đang sống.

Chúng ta không cần phải nhìn đâu xa. Trong cái nhìn sâu thẩm phổ thông, một trong những bông hoa Đại Thừa của giáo huấn Đức Phật về Duyên Sinh (pratitya samutpada), chúng ta có một tuệ giác căn bản trong mối liên hệ của chúng ta với thiên nhiên. Cái nhìn này được minh họa trong biểu tượng của lưới Đế Thích: phía trên Thiên đàng, trên nóc cung điện của vua trời Đế Thích, ở đấy treo vô số châu báu xen lẫn với nhau trong một mạng lưới vĩ đại. Khi ánh sáng phản chiếu từ những trân bảo đủ loại này không chỉ mỗi hạt châu phản chiếu toàn bộ vũ trụ, mà cũng là phản chiếu từ mỗi hạt châu khác trong mạng lưới, bao hàm tất cả sự phản chiếu của tất cả châu báu, những sự phản chiếu của những sự phản chiếu, và tất cả những sự phản chiếu kia.

Trong cảnh tượng xinh đẹp ngoạn mục này, chúng ta có thể bắt đâu liên kết một cách sáng tạo với sự hệ thuộc hổ tương của tất cả mọi tiến trình. Đem tuệ giác này về trái đất, một cách thực tiển, điều trở nên rõ ràng rằng bằng việc tổn hại thiên nhiên, chúng ta thật sự làm tổn hại chính mình. Có rất nhiều thí dụ để minh chứng điều này trong truyền thông hiện tại: mưa a xít, hiệu ứng nhà kính, những lỗ của tầng ozone, ô nhiễm phóng xạ, đây chỉ là một số điều được nêu tên. Những sự phản ứng của thiên nhiên đến sự cẩu thả của chúng ta làm tại hại cho chúng ta không chỉ về vật lý mà cũng về tâm lý, khi chúng ta đối diện với sự đe dọa của môi trường gia tăng một cách không thân thiện đến sức khỏe của đời sống nhân loại.

Tái tuyên bố một cách rõ ràng cái nhìn này về sự thâm nhập trong một ý nghĩa tích cực, để cải thiện phẩm chất cuộc sống, chúng ta cần sống hòa hiệp hơn nhiều với thiên nhiên. Điều này nghe có vẻ như là một vấn đề hiển nhiên và giản dị, nhưng thật sự chắc chắn không là cung cách mà nền văn hóa chúng ta tiếp cận với thiên nhiên. Trong nền văn hóa vật chất hiện tại, không nghi ngờ gì sự ảnh hưởng một cách mạnh mẽ của quan điểm Ki Tô Giáo rằng Thượng Đế đã đặt để thiên nhiên ở đấy cho con người sử dụng vì mục tiêu của nhân loại, nên chúng ta phải tiếp cận môi trường từ quan điểm của sự quản lý tài nguyên. Trong nhiều trường hợp với những công ty kỷ nghệ lớn, điều này đáng gọi là sự quản lý tài nguyên sai lạc, khi đầu óc hẹp hòi lèo lái vì mục tiêu lợi nhuận làm cho những khối lượng khổng lồ của chất độc đã được thải vào trong bầu trời, sông ngòi, và đại dương của chúng ta cũng như vung vải khắp những vùng đất đai làm những nơi ấy trở thành những rắc rối cho những người khác.

Phương pháp ‘quản lý tài nguyên’ đưa chúng ta vào trong những khó khăn trên một mức độ cá nhân hơn. Trong việc nhìn chính chúng ta như những người ‘quản lý’, và do thế bên trên thiên nhiên, chúng ta có thể đánh mất một cách dễ dàng chính những phẩm chất này là những điều đã được ban cho chúng ta, nhân loại chúng ta. Đây là là nguồn gốc đáng chú ý một cách đặc biệt. Có phải sự tàn bạo vô vàn liên hệ đến việc tàn sát thú vật để làm cho những nhà bếp của thế giới được cung cấp liên tục với thịt, hay sự giết hại những tạo vật khổng lồ ở trên biển cả bởi những quốc gia giàu có như Nhật Bản đã làm cho suy thoái toàn bộ chủng loại loài người. Vị thế của Phật Giáo, trên mặt khác, nhấn mạnh sự tương tác hòa hiệp giữa chính chúng ta và thiên nhiên, không thụ động cũng không cố gắng để thống trị, và hoàn toàn đưa chúng ta quan tâm đến việc khả dĩ cho một chế độ chay tịnh một cách tự nhiên.

Vì thế, đây là viễn kiến, nhưng làm thế nào chúng ta biến điều này trở thành hiện thực? Ở đây chúng ta thấy đạo đức Phật Giáo hổ trợ chúng ta, với nguyên tắc căn bản về bất bạo động (ahimsa) hay không tổn hại. Trong tuyên bố của giới thứ nhất, tránh việc tổn hại sự sống của chúng sinh, chúng ta có thể thấy kỷ nghệ sử dụng tài nguyên trái ngược với nguyên tắc này; trong việc tàn phá rừng mưa nhiệt đới, chúng ta phá hoại nơi sinh sống của những tạo vật khác và tạo điều kiện cho những điều kiện của sự xói mòn đất đai, mà điều này đưa đến lụt lội và đói kém, do thế biến thành khổ đau không kể xiết cho những người khác. Vì thế, đặt nguyên tắc này vào trong thực hành, chúng ta cũng cần một mức độ tỉnh thức sâu sắc về những hậu quả do những việc làm của chúng ta – đây là một điều kiện tiên quyết cho bất cứ hành động thiện xảo chân thành nào.

Thông thường, những hành động mà chúng ta thực thi trong mối liên hệ với môi trường cũng mâu thuẩn với giới thứ hai, tránh không lấy những gì không được cho. Điều này có thể xãy ra trong ý nghĩa hoàn toàn thô sơ hay vi tế hơn nhiều. Trong khi chạy quanh quẩn xuyên qua một cánh đồng đầy bông hoa, bao nhiêu người trong chúng ta hái một số bông hoa – hơn là chúng ta cần đến – giống như chúng là của chúng ta và không có một tư tưởng nào nghĩ đến việc người khác sẽ bị thiếu thốn những niềm vui trong việc cảm ơn những bông hoa ấy? Nguyên tắc bất bạo động không nên được xem như có nghĩa rằng con người phải từ bỏ hoàn toàn việc sử dụng của mình đối với những tài nguyên thiên nhiên vì sợ phải làm tổn hại bất cứ sự sống nào. Nói cho cùng, con người chúng ta cũng là một bộ phận của thiên nhiên, và cần duy trì một sự quan tâm lành mạnh cho lợi ích của chính chúng ta và của những thành viên nhân loại. Chúng ta cần sử dụng tài nguyên sẳn có để giải thoát chúng ta khỏi việc vướng mắc những sự tàn phá thiên nhiên: bảo tố, lủ lụt, và đói kém. Tuy nhiên, với sự tỉnh thức về những hậu quả của chúng ta, chúng ta có một trách nhiệm lớn lao hơn trong việc sử dụng tài nguyên trong một cách có thể không tổn hại và lợi ích nhất.

Như mục sư Phật Giáo Anh quốc, người sáng lập Hội Thân Hữu Phật tử Tây Phương, Sangharakshitađã từng nói, ‘Việc sử dụng đúng đắn thiên nhiên là một bộ phận của đời sống tâm linh.’ Điều này môt lần nữa đưa chúng ta quan tâm đến việc khả dĩ cho chế độ chay tịnh. Ở việc ước lượng sơ sài, phải cần rau cải mười lần hơn để nuôi một người dùng chay tịnh. Trong một thế giới với sự căng thẳng gia tăng chưa từng có về việc cung cấp thực phẩm cho việc ăn uống xa xỉ về thịt dường như ngày càng thiếu đạo đức hơn, ngoài việc liên hệ đến sự tàn sát thú vật.

Nếu chúng ta có thể bắt đầu thâm nhập sâu xa hơn đến mối quan hệ của chúng ta với thiên nhiên qua sự thấu hiểu tương tức tương nhập, và sống hòa hiệp hơn với môi trường của chúng ta qua việc sử dụng nguyên tắc bất bạo động, thế thì một sự tỉnh thức lớn mạnh hơn về thiên nhiên sẽ bắt đầu để bồi bổ cho việc thực hành tâm linh của chúng ta. Khả năng của chúng ta để phát triển như những con người là gắn bó một cách gần gũi với môi trường mà chúng ta sinh sống; hòa hiệp với môi trường ấy sẽ có một tác dụng tích cực với sự thực hành tâm linh của chúng ta. Nói cho cùng, trong thế giới tự nhiên, chúng ta thấy nhiều biểu tượng gợi hứng nhất cho khả năng phát triển của chúng ta ; bầu trời màu xanh, đại dương bao la, những ngọn núi cao ngất. Có nhiều tấm gương đơm hoa kết trái từ việc gợi hứng đến từ kinh nghiệm của con người về sự xinh đẹp và tráng lệ của thiên nhiên, đặc biệt những nơi hoang vu. Từ những nhà khoa học đến huyền bí học, con người đã tìm thấy những điều mầu nhiệm và phức tạp của thiên nhiên là cội nguồn của tuệ giác và tăng thượng. Vì lý do duy nhất này, điều rất quan trọng là tối thiểu một số những nơi hoang vắng nào đấy sẽ được tồn tại [1].

Mặc dù thế, chúng ta phải cẩn trọng về việc quá đa cảm về thiên nhiên; sự tuần hoàn của đời sống trong thế giới tự nhiên có thể đôi khi rất khắc nghiệt. Sự phát triển kỷ thuật đã giải thoát chúng ta khỏi điều này một phần nào và một vận động cho việc ‘trở lại với tự nhiên’ chắc chắn sẽ không là một giải pháp cho những vấn nạn của nhân loại. Với hàng khối vấn đề, nhưng mỗi hành động nho nhỏ của chúng ta là đáng giá. Hy vọng rằng sẽ đủ để mọi người thức tỉnh đến sự kiện rằng chúng ta đang cần kiếp sự thay đổi thái độ của chúng ta đối với thiên nhiên để cho những thế hệ tương lai có thể tiếp tục thu hưởng sự sống đầy cảm hứng trên trái đất này.

[1] Có những đỉnh núi ở Nepal cấm người lai vãng để bảo tồn sự linh thiêng của những nơi ấy.

Buddhism and the Environment
Ẩn Tâm Lộ ngày10 - 03 – 2011
http://fwbo.org/articles/buddhism&environment.html
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/01/2017(Xem: 8929)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 9650)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
27/12/2016(Xem: 12688)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 5243)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 24305)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13178)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
16/07/2016(Xem: 10071)
Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn giáo nói chung và pháp phục Phật giáo nói riêng thể hiện tình trạng tôn giáo và xã hội (social and religious status), được sử dụng trong hai hình thức, mặc trong sinh hoạt thường nhật và mặc trong các nghi lễ tôn giáo, nói chung các dịp đặc biệt.
24/04/2016(Xem: 31213)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 14934)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
04/03/2016(Xem: 11420)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567