Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hướng Nội Và Hướng Ngoại Dưới Cái Nhìn Phật Giáo

28/08/201012:11(Xem: 4945)
Hướng Nội Và Hướng Ngoại Dưới Cái Nhìn Phật Giáo
hoa_sen (7)Hướng Nội Và Hướng Ngoại 
Dưới Cái Nhìn Phật Giáo


Ngay cả trong thời đại văn minh khoa học, xã hội phát triển theo xu hướng hội nhập toàn cầu, thì định hướng trung tâm của tính cách con người vẫn có phần thuộc đời sống hướng nội và phần thuộc đời sống hướng ngoại mà Phật giáo Thiền gọi là nội quán và ngoại quán, bao gồm trong Tứ niệm xứ với các đề tài thiền quán về thân, thọ, tâm, và pháp, theo đó, thân thì bất tịnh, thọ mang lại khổ đau, tâm thì vô thường, và pháp vốn vô ngã. Từ các pháp quán, con người có thể đứng về mặt nhận thức luận để biết bản chất cuộc đời, rồi từ đó, đứng về mặt đạo đức học, con người có những hành động phù hợp với nhận thức. 
 
Do nội quán, người ta nhận biết được cái tâm vọng động chứa đầy tham sân si, vô thường, vô ngã của mình để từ đó nỗ lực tìm về cái chân tâm. Phật tính, hay bản lai diện mục vốn có trong mỗi con người. 
 
Do ngoại quán, ta nhận chân được cái khổ triền miên của mọi chúng sanh, trong đó có ta, chính là hệ quả của cái tâm vọng động. Với nhận thức đúng có được nhờ vào nội quán và ngoại quán, ta nỗ lực thực hiện các hành động đúng tốt góp phần cứu khổ cho chúng sinh. Đó gọi là lợi hạnh độ sinh.

Hai thể cách nội quán và ngoại quán, hay cũng có thể nói là hai xu hướng hướng nội và hướng ngoại, tựa hồ mâu thuẫn nhau, nhưng thật ra thì chúng bổ sung hỗ trợ cho nhau, tiêu biểu cho hai hạnh lớn của đạo Phật là trí tuệ và từ bi; và Đức Phật, được Phật tử toàn thế giới ca ngợi tôn sùng, chính là bậc Thánh đã thể hiện một cách hoàn hảo nhất hai đức hạnh trí tuệ và từ bi đó.

Xu thế hướng nội: quay về con người thật của chính mình. Giữa thế giới đầy biến động hiện nay, trước cuộc sống thác loạn mà đặc trưng nổi bật của những xã hội có trình độ văn minh vật chất cao là hầu hết con người đều mải miết chạy đua theo lạc thú vật chất, và ngay cả những xã hội đang phát triển cũng bị nền văn minh đó mê hoặc để chập chững bước vào đường đua, chúng ta có thể nghĩ gì? Có sức mạnh sâu kín gì nằm ở đằng sau những tệ nạn như ma túy, tội phạm ở lứa tuổi thanh thiếu niên, mãi dâm, loạn dâm và bạo dâm, đồng tình luyến ái, bệnh tâm thần, nạn tự sát cá nhân hay tập thể v.v…như báo chí thường nêu?

Có thể thấy rằng đằng sau tất cả nếp sống thác loạn đó, vẫn là xu thế của con người bất hạnh muốn thoát khỏi cái Ta hạn hẹp và vị kỷ, muốn thoát khỏi tâm trạng bất an và những mối ưu tư dai dẳng, thường trực. Phải chăng là con người tưởng rằng vì nội tâm đầy ưu tư và buồn chán, cho nên phải hướng ra bên ngoài để tìm lạc thú vật chất? Phải chăng con người tưởng rằng càng chiếm hữu càng nhiều của cải và tiện nghi vật chất, con người sẽ càng thêm được hạnh phúc, mọi nỗi ưu tư trong nội tâm sẽ được xóa bỏ?

Chủ nghĩa khoái lạc vốn đã được đề cao qua các triết gia thời cổ như triết phái Duy vật Carvata ở Ấn Độ, triết phái Hedonism và Epicurism ở Hy Lạp với các triết gia Aristippus, Hermachus, Epicurus….Tuy nhiên, đạo Phật nói rằng đó là ảo tưởng của những người khát nước mà còn ăn mặn, và càng ăn mặn càng bị khát nước. Đạo Phật chỉ ra rằng, nỗi bất an và ưu tư nội tâm chỉ có thể giải quyết ở trong nội tâm, chứ không thể giải quyết ở bên ngoài. Phương pháp tu thiền của đạo Phật mà người phương Tây quen gọi là đạo Phật Thiền chính là phương pháp giúp con người trở về với nội tâm mình để giải quyết một cách căn bản mọi nỗi ưu tư và bất an của nội tâm. 
 
Nội tâm chúng ta không khác gì mặt nước hồ bị những đợt gió dục vọng chạy theo ngoại cảnh làm cho nổi sóng và vẩn đục. Chúng ta ưu tư, chúng ta bất an chính vì chúng ta hằng ngày sống với cái nội tâm nổi sóng đó, trong khi cả lớp nước hồ sâu thẳm, trong lặng thì chúng ta bỏ quên như là xa lạ, không phải của mình.

Mục đích của Thiền không ở ngoài việc chỉ bày cho chúng ta những phương pháp thích hợp để làm cho bề mặt của nội tâm ta không còn nổi sóng, không còn dao động, để có thể nhìn sâu vào những lớp nội tâm rộng lớn, trong lặng vốn là cái tâm thật của chúng ta, chân tâm của chúng ta.

Nội tâm của con người, từ bề mặt cho đến những bề sâu, một khi được làm cho vắng lặng, thì sẽ trong sáng như gương, sẽ là nguồn an lạc và hạnh phúc, sẽ là chân lý là ánh sáng, là Niết-bàn. Phương pháp tu thiền rất nhiều vì bản tính con người muôn vàn sai biệt, người thì độn căn, người thì lợi căn, có người nặng về tham, có người lại sân và si nhiều. Thế nhưng mục đích cuối cùng phải đạt tới của mọi phương pháp tu thiền đều là an tịnh nội tâm, làm vắng lặng và trong sáng nội tâm, biến nội tâm từ dao động trở thành yên tịnh, từ mê mờ trở thành sáng suốt. Tâm sáng suốt, đó chính là trí tuệ Bát-nhã, chính là cái mà người ta thường gọi là trí tuệ siêu việt. Có được trí tuệ Bát-nhã, thì tức là thành Phật, bậc Thánh nhìn thấy tất cả, biết hết tất cả.

Trong Cư trần lạc đạo phú, hội 5, Phật hoàng Trần Nhân Tông viết: “Bụt ở trong nhà, chẳng phải tìm xa, Nhân khuẩy bổn nên ta tìm Bụt, Cốc mới hay chính Bụt là ta”. Nghĩa là tất cả chúng ta chính là Phật cả và chính vì chúng ta quên mất cái “bổn”, cái gốc đó cho nên chúng ta mới là chúng sanh, có trí óc mê muội và thâm tâm đau khổ bất hạnh. Niềm ưu tư, nỗi bất an thường trực có mặt trong nội tâm của mỗi người chính là bắt nguồn từ chỗ quên mất con người thật của mình vốn là Phật, mà chỉ biết sống với con người giả, là chúng sanh. Đạo Phật của Trần Nhân Tông cũng như của đầu đời Trần nói chung, là một đạo Phật hướng nội rất rõ nét, rất sinh động. 
 
Nên trên từ vua chúa, hoàng thân, đại thần, tướng lĩnh…đến dưới là binh sĩ, thứ dân…mọi người đều tin rằng mình là những ông Phật sẽ thành, do đó ngay trong hiện tại phải sống xứng đáng với ông Phật ở trong mình, sống với những đức hạnh của Phật như là từ bi, trí tuệ, dũng khí vô úy…thì hỏi có giặc ngoại xâm nào có thể xâm phạm bờ cõi Việt Nam mà không bị đánh bại?

Cổ đức có câu: “Khổ hải vô biên, hồi đầu thị ngạn” (Biển khổ mênh mông, nhưng quay đầu lại thì sẽ thấy bờ). Quay đầu lại là hướng về nội tâm, quay đầu lại để sống với con người thật của chính mình, và con người thật đó chính là Phật với đầy đủ hai đức hạnh trí tuệ và từ bi. Đó chính là phương thuốc mà đạo Phật có thể cống hiến cho con người hiện đại. Con người hiện nay đang lãng đãng như khách phong trần trên khắp các nẻo đường, tìm kiếm sự thật và hạnh phúc, tuy biết rằng sự tìm kiếm đó là vô vọng. Đạo Phật nói: thôi hãy đừng tìm kiếm đâu xa nữa! Hãy trở về với chính mình, với con người thật của mình.

Xu thế hướng ngoại: một cuộc sống hoàn toàn vô ngã vị tha, tích cực, năng động, phong phú. Con ngươi, sau một quá trình tìm kiếm lâu dài không có kết quả, cuối cùng biết trở về với chính mình, thì bỗng thấy cái gọi là mình, là ta, thực ra không tồn tại. Cả thân và tâm chỉ là một dòng, một chuỗi hiện tượng tâm và sinh lý biến chuyển liên tục trong từng sát-na một, và ở bên trong hay là ở đằng sau dòng chảy liên tục đó, không có một cái gì gọi là linh hồn hay là cái ta vĩnh cửu.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm, một bộ kinh Đại thừa quan trọng đã minh họa thuyết Vô ngã của đạo Phật bằng một ảnh dụ rất sinh động và cụ thể: “Cũng như trăm ngàn biển cả trong lặng mênh mông, mà bỏ đi tất cả rồi chấp nhặt một bọt nước là mình…” Chấp thân này là ta, cũng như biển cả quên mình là biển cả rồi chấp nhặt một bọt sóng là biển cả.

Con người giác ngộ lý tưởng vô ngã của nhà Phật, phát hiện thấy mình không phải là cái bọt nước mà là cả đại dương rộng lớn, mình là đồng một thể với tất cả mọi người, mọi chúng sanh, mọi loài hữu tình, và từ nhận thức đầy trí tuệ này, con người phát ra một lòng từ rộng lớn, lòng bi rộng lớn, nguyện làm tất cả những gì có thể làm được, vì lợi lạc của tất cả chúng sanh, của tất cả mọi loài. Sống như vậy, đạo Phật gọi là sống theo lý tưởng Bồ-tát. Đó là lý tưởng sống hòa nhập vào mọi người, mọi chúng sanh đều bình đẳng, cùng một thể.

Như đã nói, đạo Phật luôn khuyến cáo mọi người hãy quay về với con người thật của mình, thế nhưng con người thật của chúng ta lại là vô ngã, nó không hạn chế trong cái thân và tâm vô thường hạn hẹp này, nó là cùng một thể với tất cả mọi người, mọi chúng sanh và mọi loài hữu tình khác. Và sống hòa nhập với mọi người, mọi chúng sanh chính là lối sống vô ngã vị tha theo lý tưởng Bồ-tát.

Nói tóm lại, hướng nội để tìm con người thật của chính mình. Nhưng sau khi phát hiện con người thật của mình lại là không có mình, không có ta, là vô ngã, đồng nhất với tất cả mọi người, mọi chúng sanh khác, cho nên đạo Phật lại chủ trương một cuộc sống năng động tích cực, hướng ngoại không phải là để tìm và hưởng thụ những lạc thú vật chất tầm thường và phi đạo đức, mà là để mưu lợi và đem lại an lạc cho mọi người, mọi loài. 
 
Trong cả hai xu thế hướng nội và hướng ngoại này, nổi bật lên chủ thuyết vô ngã của đạo Phật, nó không khác gì sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ giáo lý, đạo đức và thực tiễn tu hành của đạo Phật. Khi Đức Phật còn tại thế và cả sau khi Ngài đã nhập diệt, tại bất cứ nơi nào đạo Phật có mặt thì lý tưởng vô ngã vị tha bao giờ cũng là chuẩn mực bất di bất dịch của nếp sống đạo đức Phật giáo. Bất cứ một người nào mà chối bỏ lý tưởng đó, sống ngược lại với lý tưởng đó, thời không thể được xem như là người Phật tử chân chinh. Chúng ta hãy nghe lời Đức Phật khuyến dụ lớp học trò đầu tiên của Ngài: “Này các Tỷ kheo, các người cần phải tu hành, vì an lạc số đông, vì hạnh phúc cho số đông, vì lòng thương thưởng cho đời, vì hạnh phúc của chư Thiên và loài người…”(Magavagga, 19).

Cho nên, từ năm 300 trước Tây lịch, vào một thời mà đạo Phật Đại thừa chưa hưng khởi , thì Hoàng đế Asoka ở Ấn Độ đã phái nhiều đoàn truyền giáo mang thông điệp của Đức Phật Thích-ca đên tận các xứ Syria, Hy Lạp, Ai Cập, Bắc Phi và nhiều vùng xa xôi khác trên thế giới. Theo truyền thuyết, một phái đoàn truyền giáo của vua Asoka đã đến tận nước ta, và có xây một bảo tháp ở đây. Truyền giáo ở đất nước xa xôi, bất chấp những trở ngại về ngôn ngữ, phong tục tập quán…là một hành động không những vị tha mà còn dũng cảm nữa. Và đã có biết bao nhiêu người đi mà không trở về trong sự nghiệp truyền giáo của các tôn giáo lớn trên thế giới.

Thiếu sót cơ bản của con người hiện đại là đã đánh mất con người thật của chính mình, mà chạy theo cái Ta giả với những khao khát thèm muốn không bao giờ có thể thỏa mãn. Con người hiện đại ở xã hội văn minh phương Tây, có thể sống một đời sống tiện nghi vật chất thật đầy đủ, nhưng chỉ thiếu một cái là hạnh phúc, là sự an ổn nội tâm để thật sự thụ hưởng tất cả mọi của cải và tiện nghi vật chất đó.

Đúng như vậy, của cải và tiện nghi vật chất, lạc thú vật chất không thể là mục đích tự nó, không thể là cứu cánh được. Bởi vì, tối thiểu con người phải có sự bình tĩnh và thanh thản của tâm hồn mới có thể tận hưởng những lạc thú vật chất hay tinh thần. thế nhưng từ lâu, do không biết đến sự kiềm chế dục vọng, con người của xã hội văn minh đã đánh mất sự bình tĩnh và thanh thản đó của tâm hồn, là điều kiện tiên quyết và cơ bản của một hạnh phúc chân chính và thật sự.

Rõ ràng, đạo Phật một mặt lên án cuộc sống chạy theo những dục vọng vật chất thấp hèn, mặt khác cũng không phải đề cao cuộc sống nghèo đói, kham khổ, đạo Phật lại càng phê phán lối tu hành hạ xác thân, ép xác khổ hạnh, chỉ làm cho thân người bệnh hoạn và đầu óc con người u mê. Đức Phật khuyên chúng ta tránh cả hai cực đoan chạy theo dục lạc vật chất và sống ép xác khổ hạnh. Đức Phật khuyến cáo học trò mình cũng như tất cả mọi người sống nếp sống lành mạnh, giản dị, hướng thượng, chói sáng đạo đức giới hạnh và trí tuệ, một nếp sống mà tất cả mọi người dù giàu hay nghèo, xuất gia hay tại gia, ở phương Đông hay ở phương Tây đều có thể sống hay hướng đến. 
 
Một nếp sống như vậy sẽ đem lại sự bình tĩnh nội tâm, sự sáng suốt của trí tuệ, giúp con người có thể thấy được sự vật như thật. Chính nhờ đó mà con người có thể sống hài hòa với bản thân và làm chủ bản thân, sống hòa hài với xã hội, với thiên nhiên. Và trong nhịp sống hòa hài đó, với bản thân, với xã hội và thiên nhiên, con người mới tìm thấy hạnh phúc thật sự.

Nếu tất cả mọi người đều chấp nhận và sống nếp sống như vậy, thì mọi cá nhân, gia đình và cả thế giới chiến tranh và bất ổn này sẽ sớm trở thành một thế giới hòa bình và hạnh phúc. Và như vậy, xu thế hướng nội của đạo Phật quay về với con người thật của chính mình không nên bị hiểu nhầm là tiêu cực, tự thu mình trong tháp ngà. Xu thế hướng ngoại mà đạo Phật nói dẫn tới một lối sống vị tha tích cực, vì lợi lạc của tất cả mọi người, mọi chúng sanh. Trong kinh điển của Phật giáo Nguyên thủy, có ghi những lời dạy của Đức Phật khuyến cáo học trò mình phải tích cực hoằng hóa độ sanh, và nhất là thực hành Bốn nhiếp pháp để gần gũi chúng sanh, mưu lợi lạc cho chúng sanh, gần gũi mọi người, đem lợi lạc cho mọi người.

Bốn nhiếp pháp đó là ái ngữ, từ là lời nói dịu hiền dễ nghe; bố thí, tức là giúp đỡ chúng sanh trên các mặt cung cấp của cải vật chất, giảng giải đạo lý, giáo pháp của Đức Phật, che chở, bảo vệ chúng sanh nếu cần thiết, và tùy hỷ với tất cả niềm vui của chúng sanh; lợi hành là thực hiện các hành động lợi lạc cả về thân khẩu ý để hướng mọi người vào chánh đạo; và cuối cùng là đồng sự, tức là cùng làm việc với chúng sanh.v.v… Bốn nhiếp pháp: ái ngữ, bố thí, lợi hành, đồng sự là như vậy, chúng thể hiện nếp sống vị tha tích cực của đạo Phật.

Cùng với Bốn nhiếp pháp, người Phật tử giác ngộ về thuyết Vô ngã, còn ra sức tu tập, thực hành Bốn vô lượng tâm, tức là mở lòng từ, lòng bi, lòng hỷ, lòng xả bao trùm tất cả chúng sanh khắp mười phương. Đồng thời cũng tu tập thực hành Sáu hạnh Ba-la-mật, tức là bố thí, giới hạnh, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ. Sáu hạnh này, được tu tập và thực hành đến chỗ hoàn hảo, triệt để sẽ giúp cho những người sống theo lý tưởng Bồ-tát, có thể vứt bỏ hoàn toàn cái Ta nhỏ hẹp, vị kỷ, sống hòa nhập vào tất cả chúng sanh, tất cả mọi người.

Đó là nếp sống của những người Phật tử giác ngộ về lý Vô ngã của đạo Phật. Nếp sống đó không có gì là tiêu cực thụ động. Trái lại, nó rất tích cực, năng động và phong phú, đa dạng. Mong rằng nó tỏ ra hấp dẫn đối với con người hiện đại, đối với xã hội hiện đại.

Tạp Chí Văn Hóa Phật giáo số 162
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/01/2017(Xem: 8050)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thườngcũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
08/01/2017(Xem: 9111)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 9732)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
27/12/2016(Xem: 12783)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 5297)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 24517)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13360)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
16/07/2016(Xem: 10114)
Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn giáo nói chung và pháp phục Phật giáo nói riêng thể hiện tình trạng tôn giáo và xã hội (social and religious status), được sử dụng trong hai hình thức, mặc trong sinh hoạt thường nhật và mặc trong các nghi lễ tôn giáo, nói chung các dịp đặc biệt.
24/04/2016(Xem: 31646)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 15083)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567