Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần IV: Nhận định và Kết luận

14/05/201312:27(Xem: 3661)
Phần IV: Nhận định và Kết luận

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam

Trường Cao Cấp Phật Học Việt Nam

TP Hồ Chí Minh

Khóa III (1993-1997)

Nhân sinh quan Phật giáo

(Luận văn tốt nghiệp)

---o0o---

GSHD:TT Thích Trí Quảng

Ni sinh:Thích nữ Như Ngọc

---o0o---

Phần III:

ỨNG DỤNG SỰ TU TẬP NGŨ UẨN TRONG ÐỜI SỐNG HIỆN TẠI

PHẦN IV : NHẬN ÐỊNH VÀ KẾT LUẬN

Phật giáo: cái nhìn trí huệ

Chân lý là những gì hết sức linh động và thực tại. Từ nhận định đó, đạo Phật đã thành lập dạo lý hướng dẫn con người hành động chứ không ngây thơ đặt những giáo điều, cứng nhắc mong áp dụng hoàn mỹ cho mọi căn cơ, thời đại. Vì vậy, đạo Phật với tinh thần khế lý khế cơ đã biểu hiện dưới nhiều hình thức uyển chuyển và ứng hợp phương châm ‘Phật pháp bất ly thế gian pháp’như các thiền sư Việt nam với vô lậu ngũ uẩn thân đã đi vào xã hội, tùy duyên làm lợi ích cho quần sanh. Thiền sư Tuệ Tĩnh Sư Tổ ngành Nam dược Việt Nam. Thiền sư Nguyễn Minh Không mở ra kỹ thuật đúc chuông đồng, mở mang nền công nghiệp đúc đồng thời Lý. Thiền sư Vạn Hạnh, nhà tâm lý xã hội và là nhà chính trị, đã thực hiện công cuộc cách mạng phế Lê lập Lý, một cuộc cách mạng từ bi đạo đức nhất trong lịch sử Việt nam và thế giới .. Các thiền sư bất động trên sàng tọa mà có hàng trăm hàng ngàn người đi hành đạo.

Công cuộc truyền bá Chánh pháp của những người theo chân đấng Giác ngộ viên mãn được tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác, lấy con người làm đối tượng để phục vụ, lấy nhân tính làm nền tảng kiến thiết một xã hội công bình, hợp lý đồng thời thừa nhận giá trị khả năng sáng tạo của con người, sống và phục vụ con người, vì sự hòa hợp vào đại thể rộng lớn của vũ trụ. Bằng nhận thức ấy, đạo Phật nhìn vũ trụ và con ngườì như một chuỗi nhân quả nối tiếp, trùng trùng duyên khởi, liên hệ mật thiết bất khả phân . Trong khi đó, các nhà Triết học phương Tây lại có cái nhìn tách biệt con người khỏi thế giới. ‘Vì thế đạo Phật là một thực tại sinh động cần thể nhập, hiểu biết mà không phải của khái niệm hay luận lý. Nếu nhìn đạo Phật qua lăng kính phân biệt ta sẽ mất nó’[1]

Ðến đây, chúng ta có thể tóm kết lại rằng trong ngũ uẩn, tuy sắc thân là cơ sở của thọ, tưởng, hành, thức nhưng mọi diễn biến trong cuộc đời từ sự hình thành đến hủy diệt thế giới đều do tâm. Ðạo Phật đã khơi mở trí huệ con người bằng mọi cách từ sự giáo dục với cái nhìn về bản chất cuộc đời đến những phương pháp hành trì cho tâm thật phát triển tới trạng thái vô lậu. Cái nhìn trí huệ ấy sẽ được làm cho mạnh hơn và nguồn tâm sáng tạo sẽ được đánh thức dậy qua sự thực tập thiền định như là công phu chính, thực hiện con đường (magga) Phật giáo dẫn đến giải thoát. 

Trí tuệ tuyệt vời của Phật giáo đã mở cho con người thấy rõ mọi việc ‘Mầm mống phát sinh ngũ uẩn hay chấm dứt ngũ uẩn đều ở nơi ngũ uẩn’. Ðây là ý ngĩa chân thật của lời dạy danh tiếng của Ðức Phật: ‘Chính ngay trong thân này ta nói có thế giới và con đường đưa đến sự chấm dứt của thế giới’[2]

Nhân sanh quan Phật giáo qua ngũ uẩn đã khẳng định vị trí của con người trong vũ trụ, xua tan mọi mặc cảm yếu hèn trước thiên nhiên và các thế lực huyền bí. Nó đã khẳng định con người làm chủ vận mệnh của mình, chịu trách nhiệm về chính mình. Vì con người và vũ trụ là một, nên Cổ Ðức nói: ‘Tâm bình thời thế giới bình, tâm tịnh thời Phật độ tịnh’.

Do đó, con người có thể chuyển đổi được Nghiệp của mình và có thể tự xây dựng cho mình một cuộc sống an vui và hạnh phúc.

Vai trò người tu sĩ trong hiện tại:

Là người con Phật, hàng ngày sống thực hành những lời Phật dạy; chúng ta không thể thờ ơ với cuộc sống, không đòi hỏi những hạnh phúc vật chất hay tham cầu bất chánh. Cái nhìn rõ ràng về ngũ uẩn sẽ tạo cho chúng ta có niềm tin tưởng nhau, tạo nên những ổn cố cần thiết cho xã hội: ‘Phân tích hay thực hiện cái nhìn trí huệ năm thủ uẩn, lặp đi lặp lại hàng ngày sẽ mở ra con mắt huệ cứu khổ tự thân. Ðây là di chúc mà người xưa đã để lại trong Bát Nhã Tâm Kinh. Ở đây sẽ có duyên thấy đạo’. (TT Chơn Thiện)

Lý tưởng giải thoát chỉ được nuôi dưỡng bằng trí tuệ và lạc giải thoát của Thiền định qua nỗ lực thoát ly các nhân tố gây ra khổ đau từ thực tại khổ đau, như hoa sen tinh khiết vươn mình ra khỏi bùn từ thực tại bùn. Chúng ta cần thấy rõ thực trạng xã hội hiện nay. Con người đang rơi vào khủng hoảng, bị cuốn trong cơn lốc văn minh vật chất, văn hóa ngoại lai sôi động, đang cần có bàn tay chuyển hóa. Phải ý thức và thực nghiệm những khổ đau của cuộc đời, khi nào cuộc đời còn vấn đề phải giải quyết thì Ðạo Phật còn sứ mạng.

Chúng ta cũng không thể mong đạt đến chân lý tuyệt đối khi trí huệ còn mờ ám vô năng ‘Giai đoạn tu học trước mắt Tăng Ni sinh là giai đoạn nặng nề trách nhiệm đối với sự hưng suy của Phật pháp. Những trầm tư thao thức về Chánh Pháp sẽ làm trong sáng tư duy và tình cảm của người tu sĩ. Khác đi, là những gì u ám được đợi chờ.’ (TT Chơn Thiện)

Chúng ta cần tư duy quán sát nhiều hơn về Chánh pháp, nhìn thấy Chánh pháp qua cuộc đời, qua sự tác động giữa con người và xã hội, từng bước tu tập từ việc xây dựng một phần toàn thiện xã hội bằng tinh thần vô ngã vị tha, không lệ thuộc vào pháp, như ý nghĩa ‘Sở đắc là vô đắc, không nắm cũng không buông’[3]. Vì vậy, việc chấn chỉnh đường hướng giáo dục Tăng Ni là điều rất quan trọng và cần thiết. Nhờ vào nếp sống tu học tốt đẹp người tu sĩ mới có thể từng bước phát triển trí huệ vô lậu, đi vào xã hội để chuyển hóa khổ đau con người.

‘Hình bóng lý tưởng gần nhất của người tu sĩ phải là hình bóng của một Long Thọ, của một Huyền Trang, một Vạn Hạnh với đời sống đạm bạc gian khổ, nhưng ý chí thì vững chắc như kim cương; Ðức độ thì khiêm cung, nhẫn nhục; Hạnh nguyện thì rộng lớn như biển cả. Người xuất gia cần có đôi mắt sáng chiếu niềm tin, chói lòa nghị lực, cần có nụ cười bất diệt, xem nhẹ khổ đau để làm rõ chân tướng sáng rỡ của Ðạo Phật.’[4]

Từ chỗ hoàn thiện nhân cách, người tu sĩ với mắt tuệ và đầy tình thương nhìn cuộc đời, làm lợi ích cho nhân sanh, làm rất nhiều mà như không làm gì cả.

Con đường mà chư Phật đã mở, chư Tôn túc đã đi qua, bây giờ là lúc hàng Tăng Ni trẻ chúng ta bước vào, bước đi trên đó, sẽ đi những bước an tịnh, không vướng mắc vì an lạc, hạnh phúc của số đông.

‘Không sanh cũng không diệt.

Sanh tử là Niết bàn

Sở đắc là vô đắc

Không nắm cũng không buông’

SÁCH THAM KHẢO

  1. TƯƠNG ƯNG BỘ KINH 3, Ðại Tạng Việt Nam, HT Minh Châu dịch, 1993.
  2. TƯƠNG ƯNG BỘ KINH 5, Ðại Tạng Việt Nam, HT Minh Châu dịch, 1993.
  3. THẮNG PHÁP TẬP YẾU LUẬN, HT Minh Châu, Tu thư ÐHVN tái bản, 1971.
  4. CHÁNH PHÁP VÀ HẠNH PHÚC, HT Minh Châu, THPG TPHCM ấn hành, 1996.
  5. HÃY TỰ MÌNH THẮP ÐUỐC LÊN MÀ ÐI, HT Minh Châu, VN CPHVN, 1990
  6. ÐẠI CƯƠNG CÂU XÁ LUẬN, HT Thiện Siêu, Viện nghiên cứu PHVN, 1992.
  7. KING TĂNG NHẤT A-HÀM, HT Thanh Từ bản ronéo PHV Từ Nghiêm
  8. GIẢNG GIẢI BÁT NHÃ TÂM KINH, HT Thanh Từ, THPG TPHCM
  9. PHẬT GIÁO, HT Thiện Châu, THPG TPHCM ấn hành, 1996
  10. ÐẠI THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN, HT Quảng Ðộ, Tu thư ÐHVN, 1969
  11. TIỂU THỪA PHẬT GIÁO TƯ TƯỞNG LUẬN, HT Quảng Ðộ, Tu thư ÐHVN, 1969
  12. TỪ ÐIỂN PHẬT HỌC HÁN VIỆT, Phân viện nghiên cứu Phật học VN, 1992.
  13. KINH LỜI VÀNG, HT. Trí Nghiêm, THPG TPHCM, 1992
  14. GIẢNG LUẬN DUY BIỂU HỌC, TT. Nhất Hạnh, Lá Bối, 1996
  15. LƯỢC GIẢI KINH PHÁP HOA, TT Tri Quảng, THPG TPHCM ấn hành, 1991
  16. LƯỢC GIẢI KINH DUY MA, TT Tri Quảng, THPG TPHCM ấn hành, 1991
  17. PHẬT HỌC KHÁI LUẬN, TT Chơn Thiện, GHPGVN, BGD Tăng Ni ấn hành 1993.
  18. LÝ THUYẾT NHÂN TÍNH QUA KINH TẠNG PÃLI. TT Chơn Thiện, 1996
  19. NGHIÊN CỨU KINH LĂNG GIÀ, TT. Chơn Thiện, CS Trần Tuấn Mẫn, GHPGVN, BGD Tăng Ni ấn hành, 1992
  20. CON ÐƯỜNG THOÁT KHỔ, TKN. Trí Hải, ÐHVH, 1966
  21. HIỆP KHÍ ÐẠO, Thượng Trí dịch, Hội Hiệp khí nhu đạo Việt nam, 1969

[1]Theo đạo Phật Ngày Nay, TT Nhất Hạnh, Lá Bối, 1965, tr. 42

[2]Con đường thoát khổ, sđd, tr. 68

[3]Giảng luận Duy biểu học, TT. Nhất Hạnh, Lá Bối, 1996, tr.361

[4]Theo Ðạo Phật Ngày Nay, TT Nhất Hạnh, Lá Bối, 19965.

Hết

---o0o---


Vi tính: Tâm Diệu

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2024(Xem: 1871)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
19/12/2023(Xem: 4295)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 10395)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
13/12/2023(Xem: 9747)
Đức Phật của Chúng Ta (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
09/06/2023(Xem: 2034)
Bộ phim Phi Thuyền Serenity (2005) với thể loại khoa học viễn tưởng đã giới thiệu một hình ảnh tên là Miranda, nơi các vấn đề của nhân loại được giải quyết thông quan khoa học công nghệ. Tham lam, giận dữ, si mê (tam độc), phiền não bởi buồn bã, lo lắng và tuyệt vọng - rõ ràng là trùng lặp với một số kiết sử cổ điển của Phật giáo (Skt., Pali: samyojana)
19/05/2023(Xem: 3177)
Tôi đã rất ấn tượng bởi một số chủ đề trùng lặp mà tôi gặp phải từ một số tác giả rất khác nhau. Cụ thể tôi đã thưởng ngoạn tác phẩm “Sapiens: Lược Sử Loài Người” (קיצור תולדות האנושות‎, Ḳitsur toldot ha-enoshut) của Tác giả, Thiền giả, Giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem, Cư sĩ Yuval Noah Harari, một tác phẩm nói bao quát về lịch sử tiến hóa của loài người từ thời cổ xưa trong thời kỳ đồ đá cho đến thế kỷ XXI, tập trung vào loài "Người tinh khôn" (Homo sapiens). Được ghi chép lại với khuôn khổ được cung cấp bởi các ngành khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh học tiến hóa.
03/05/2023(Xem: 7426)
Khi Phật giáo (PG) du nhập vào Trung Hoa (TH) lần đầu tiên từ Ấn-độ và Trung Á thì những TH theo PG có khuynh hướng coi tôn giáo này là một phần hay một phái của Đạo Giáo Hoàng Lão, một hình thức Đạo Giáo bắt nguồn từ kinh sách và pháp thực hành được coi là của Hoàng Đế và Lão Tử. Những người khác chấp nhận ít hơn tôn giáo “ngoại lai” xâm nhập từ các xứ Tây Phương “man rợ” này PG là xa lạ và là một sự thách thức nguy hiểm cho trật tự xã hội và đạo đức TH, Trong mấy thế kỷ, hai thái độ này tạo thành cái nôi mà ở trong đó sự hiểu biết PG của người TH thành kính, trong khi các nhà
21/04/2023(Xem: 8514)
Thượng Tọa Thích Trí Siêu từ Pháp Quốc sẽ giảng pháp tại Úc Châu vào tháng 4 năm 2023 -- Thượng Tọa Thích Trí Siêu sinh năm 1962 tại Sài Gòn. Theo cha mẹ tỵ nạn qua Pháp năm 1975. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ cụ túc giới với Hòa Thượng Thích Huyền-Vi. Tuy xuất thân từ Đại Thừa, nhưng Thầy đã không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
20/04/2023(Xem: 9555)
Học đạo quý vô tâm Làm, nghĩ, nói không lầm Sáng trong và lặng lẽ Giản dị mới uyên thâm
12/04/2023(Xem: 3565)
Tôi muốn chia sẻ về mối quan hệ tôn giáo và xã hội hiện đại. Vì bản tính tự nhiên, mỗi cá nhân đều có sự cảm nhận về tự ngã. Từ đó, mỗi cá nhân đều trải qua các hiện tượng mà họ nhận thức được bằng cảm giác thống khổ, cảm xúc vui sướng hay yên tĩnh. Đây là sự thật, không cần phải trình bày tỉ mỉ nữa. Động vật cũng thế. Vì bản tính tự nhiên, tất cả chúng ta đều muốn đạt được an lạc hạnh phúc, không muốn thống khổ và bất hạnh. Ta khỏi cần phải chứng minh điều này. Trên cơ sở này, chúng ta đàm luận về quyền của mọi người được hưởng cuộc sống an lạc hạnh phúc, quyền vượt qua mọi thống khổ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567