Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

II.- Sự cấu tạo con người

13/05/201317:27(Xem: 3105)
II.- Sự cấu tạo con người

ĐẠO PHẬT VỚI CON NGƯỜI

HT. Thích Tâm Châu
Tổ Đình Từ Quang, Canada, 1982
---o0o---

II.- SỰ CẤU TẠO CON NGƯỜI

" Ngã tướng từng cá nhân chẳng qua ở trong hợp tướng tạm thời và riêng biệt của những phần tử vật chất và tâm thần ".

Lời Phật dạy

Không một kết quả nào mà không có nguyên nhân

Với sự cấu tạo con người là cả một vấn đề, một vấn đề đã làm tiêu hao bao nhiêu tâm lực của các nhà lập giáo, lập thuyết, nghiên cứu với mục đích tìm hiểu và giải quyết.

Phàm công việc gì, sự vật gì, đã có kết quả là đều phải có nguyên nhân của nó.Vì, có nhân mới có quả, suy quả mới biết nhân. Nơi đây con người cũng thế, có phương thức cấu tạo con người, mới có hình thể con người. Song, muốn nhận định được lẻ phải, tìm một lối đi chân chính, tất nhiên chúng ta phải đứng trên tư cách vô tư, để ý thức vào những tôn chỉ, mục đích của các đạo giáo, các học thuyết đã trình bày về vấn đề ấy bằng một cách khái quát :

1.- QUAN NIỆM VỀ NHẤT THẦN

" Hết thảy sự vật đều do quyền năng của một vị tối cao, duy nhất sáng tạo, duy trì và thưởng phạt ".

Tín ngưỡng tuyệt đối

Từ trước tới nay phần nhiều các đạo giáo hay một vài học thuyết đều lấy " Nhất thần " làm mục đích tín ngưỡng tuyệt đối. Nghĩa là, đều tôn thờ một vị Chúa tể, là vị có đủ tài năng, quyền phép sáng tạo ra vũ trụ và có quyền thưởng hay phạt.

Chủ trương ấy chúng ta có thể nhận xét trong một vài đạo giáo và học thuyết mà có lẻ chúng ta thường thường nghe biết :

A.- Đạo giáo Bà La Môn.

Một đạo giáo cổ truyền của nước Ấn Độ, cách đây trên 4000 năm, do ông Krichna chủ trương.

Căn cứ trong Thánh Kinh Phệ Đà ( Ve’das ) thì sự tín ngưỡng duy nhất của đạo giáo ấy là thần Phạm Thiên ( Brahma ) Một vị thần có đủ năng lực, trí đức và phép tắc sáng tạo ra muôn vật. Phạm Thiên là căn bản của vũ trụ. Nhất thiết sự vật đều là hình thái của Phạm Thiên. Lúc trụ thì ở tại Phạm Thiên. Lúc diệt thì về ở Phạm Thiên.

Con người cũng là hình thái của Phạm Thiên. Sống đây là sống gởi. Chết sẽ về Phạm Thiên, đời đời sung sướng, nếu biết theo đúng chân lý.

B.- Đạo giáo Da Tô

Một đạo giáo do Chúa Giê Su ( Je’sus ) cải cách một tôn giáo cổ ở Do Thái, cách đây gần 20 thế kỷ. Đạo giáo ấy tiêu biểu đức Chúa Trời là một vị duy nhất sinh ra Trời, đất, muôn vật.

Chiếu theo bộ Tân ước, Cựu ước, thì vũ trụ này trước đây chỉ là một khoảng mông mênh, mờ mịt. Song, nhờ trí tuệ, tài năng và quyền phép sẳn có của đức Chúa Trời, trong 7 ngày Ngài tạo thành mặt trời, mặt trăng, tinh tú, đất nước, núi, sông, cây cối, người và vật.

Riêng về việc cấu tạo con người, cũng một ngày trong 7 ngày ấy, nhưng Ngài lấy chút đất hà hơi vào thành ra ông A Đam ( Adam ), đồng thời, lấy chút đất cùng mấy dẻ xương cụt của ông A Đam, hà hơi vào thành ra bà E Vơ ( Eve ). Và, kết quả là hai người lấy nhau, sinh xuống cõi người, làm thủy tổ loài người, sau khi hai ông bà đã phạm vào trái cấm của Chúa. Rồi từ đó, con cháu loài người đều bị bó buộc trong tội tổ tông truyền. Nhưng, nếu ai biết tôn trọng, kính thờ Chúa, tin cậy vào Chúa, vâng lời Chúa sẽ được lên Thiên đường, hưởng khoái lạc đời đời, trái lại, sẽ phải đọa xuống hỏa ngục.

C.- Học thuyết Pythagore

Một học thuyết do ông Pythagore chủ trương và đã được kiến lập trên nước Hy Lạp cách đây chừng 25 thế kỷ.

Học thuyết này dùng SỐ HỌC làm cơ sở. Nghĩa là, dùng " SỐ MỘT "làm đầu tiên. Số ấy là nguồn gốc, là cha sinh của muôn vật, là tiêu biểu cho Thượng đế, là bao hàm hết thảy và có quyền năng sáng tạo, duy trì sự trường tồn cho muôn vật. " SỐ HAI " tức là sức sinh hoạt của vũ trụ. Do sức sinh hoạt ấy nó đem lại cho muôn vật sự sinh tồn và tăng tiến. " SỐ BA " là vật chất tức là hình sắc. Còn " SỐ BỐN " là con số làm tiêu biểu cho cá nhân, nó bao gồm tất cả ba nguyên chất trên mà biệt lập thành cá thể, để tự do hành động... Và khi nào cá thể ấy thi hành được cách thức rèn luyện, gom góp được các sự kinh nghiệm, thâu hoạch được các sự kết quả hoàn toàn và thích hợp với lẽ duy nhất, thì lúc đó sẽ được hưởng sự vui vẻ.

Kim Thi nói : " ... Xin thề trước đấng mầu nhiệm Thượng đế, đã hoạch định trong trí ta cái hình " Tứ tượng " linh diệu ( tức 4 số trên ), là nguồn gốc, là tiêu biểu của muôn vật vô cùng... " " Ôi ! Thượng đế là cha sinh ra của chúng ta... ", đủ chứng tỏ Thượng đế sáng tạo ra vũ trụ, con người là một bộ phận trong đó.

Trên đây là một vài nhận xét có thể làm nguyên tắc chung cho sự sáng tạo vũ trụ theo quan niệm của các đạo giáo và học thuyết " Nhất Thần ", mặc dầu các đạo giáo hay học thuyết ấy còn có nhiều biệt phái, nhiều hình thức và danh từ khác nhau.

2.- QUAN NIỆM VỀ TIẾN HÓA

"... Các hình thể khác nhau, đều do ở các hình thể có trước đã biến đổi và luôn luôn có sự liên lạc với nhau ".

Chủ trương và nguyên nhân của học thuyết

Đây là một học thuyết lấy sự tiến hóa làm căn bản cho sự cấu tạo. Học thuyết ấy là một học thuyết đang được thực hiện khắp nơi, được khoa học thừa nhận, là học thuyết của ông Đácuynh ( Darwin ), biểu thị : " Con người là dòng dõi của loài vật, loài hầu nhân ".

Căn cứ vào những công cuộc tìm tòi về khoa học, ông đã phát biểu ý kiến : " Các chủng loại thảo mộc và động vật cũng đã phát triển từ từ theo luật tiến hóa. Các hình thể khác nhau, đều do ở các hình thể có trước, đã biến đổi theo thời gian và các chủng loại thảo mộc hay động vật, đều có những mối liên lạc về dòng dõi với nhau ".

Cấu tạo vũ trụ vạn vật

Thể theo luận pháp trên chứng tỏ con người cũng không ra ngoài luật tiến hóa chung của vũ trụ. Nghĩa là, " Vũ trụ này ở thời kỳ hỗn mang, trong vũ trụ chỉ có thuần tinh. Sau vì những nguyên nhân không rõ, thuần tinh ấy kết thành những phần tử nhỏ rải rác. Nhờ sức vận động và sức hấp dẫn dần dần của phần tử nhỏ ấy, lại kết tụ thành cồi và cồi nguyên tử. Nhanh lại càng nhanh. Với những năng lực chứa trong các nguyên tử nhiều quá phải phóng tản bớt đi thành những hơi nóng, ánh sáng và điện khí. sau khi sự phóng tản không ngừng, nhiệt độ dần dần giảm bớt, nguyên tố của các nguyên tử kết thành những thế quân bình mới và sinh ra những đơn chất khác nhau. Đơn chất càng ngày càng tăng, vì nhiệt độ càng ngày càng thấp, khiến cho sự sống có thể phát triển được ở trên mặt. Những năng lực súc tích lại thành vật chất đã tới một trình độ quân bình vững chắc và trở nên những nơi có thể ở được trong một thời kỳ khá lâu. Nhưng trong thời gian khá lâu ấy, các nguyên tử vẫn không ngừng phóng tản ít, nhiều, nên các nguyên tố, các nguyên tử mất dần thế vững chắc. Thế là bắt đầu một thời kỳ ly tán. Thế vững chắc của các nguyên tố nội nguyên tử càng giảm đi thì sự ly tán càng nhanh. Rồi đến một thời kỳ quá suy, các nguyên tử lại trở lại thế thuần tinh như trước ".

Thân thể con người

Thân thể con người cũng thế. Cũng do những tế bào hợp thành. Những tế bào lại do những phần tử. Những phần tử lại do những nguyên tử hợp thành. Giữa nguyên tử có một nguyên điểm chất chứa dương điện và nguyên điểm ấy được bao vòng bởi những điện tử chứa âm điện. Và cùng chung một định luật cấu tạo, sinh trưởng, sinh hoạt, suy giảm và ly tán trong vòng chuyển biến, tiếp nối không ngừng.

Như thế, lần theo sự tiến hóa thì con người cùng nhịp nhàng trong sự tiến hóa của vũ trụ. Nhưng, đứng trong tương đối mà nhận xét thì bắt đầu từ hạ đẳng động vật tiến lên và chiều theo luật " tự nhiên đào thải " hay " sinh tồn cạnh tranh ".

3.- QUAN NIỆM VỀ NHÂN DUYÊN SINH

" Tất cả chúng sanh có sự sống, đều phải bỏ lại xác thân phức tạp là cái khối do vật chất, tinh thần phối hợp để tạo nên cá thể giả tạm này "

Kinh Đại Niết Bàn

Vũ trụ chỉ là một cuộc đại hoạt động tự thân nhưng liên tục...

Khi đức Giáo chủ Thích Ca Mưu Ni giác ngộ, Ngài đã nhận rõ hiện tượng vũ trụ chỉ là " nhân duyên sinh " mà thôi. Nghĩa là, không chủ trương có tạo vật chủ, không thừa nhận cái gì có trước tiên, cái gì có sau cùng, cái gì thường còn, cái gì đoạn tuyệt, cái gì đơn độc, mà tất cả sự vật chỉ là một cuộc tiếp nối, giả hợp, chuyển biến không ngừng của nhân quả và trợ duyên.

Vì, cái quả bây giờ là do cái nhân trước đây, cái nhân trước đây lại do cái quả trước nữa. Cứ thế, cứ thế mãi, lần theo ngược dòng của nó, chỉ thấy nhân này do quả nọ, quả nọ do nhân kia, không bao giờ cùng tận. Song nguyên nhân, kết quả ấy, không phải công cuộc, của ngẫu nhiên, mà phải nhờ mọi duyên, mọi mối quan hệ, những ảnh hưởng chung quanh giúp đỡ, sinh khởi và thành tựu, mặc dầu là nhân quả tương đối trong tuyệt đối.

Cho nên, với vấn đề cấu tạo vũ trụ theo quan niệm đạo Phật chỉ là một cuộc đại hoạt động tự thân liên tục trong sáu nguyên tố chính:

1/ Địa đại: đất, thuộc chất rắn.

2/ Thủy đại: nước, thuộc chất lỏng, ướt.

3/ Hỏa đại: lửa, thuộc chất nóng.

4/ Phong đại: gió, thuộc chất hơi, không khí.

5/ Không đại : tức không gian.

6/ Thức đại : tâm thức, năng lực hoạt động.

Tức là do năng lực hoạt động vô hình ( không, thức ) và hình tướng hữu hình ( địa, thủy, hỏa, phong ) luôn luôn nhịp nhàng, nương tựa nhau trong phạm vi hoạt động, phát hiện và chiều theo định luật : sinh, trụ, dị, diệt hay sinh, lão, bệnh, tử.

Con người cũng thế !

Kinh Trường A Hàm nói : " Đây là thân của ta, nó có một hình dáng do bốn chất : đất, nước, gió, lửa, tạo thành. Thân này do cha mẹ sinh ra. Nó được người nuôi dưỡng bằng sữa, bằng cơm và phải bị rã rời tiêu hoại. Còn đây là tâm của ta. Tâm này nương nơi xác thân tứ đại và phải chịu một số phận như nó ".

Phân tích rõ ràng

Cùng trong luận pháp ấy, nhưng muốn dễ dàng cho sự nhận thức, Phật học nêu ra 12 định lý- 12 nhân duyên ( Paticca Samuppada ), để chỉ cho sự cấu tạo, nhất là sự cấu tạo con người :

1/ Vô minh : Mê lầm, tối tăm, không sáng suốt. Đối với hiện tượng giới và tâm thức giới không nhận chân được thực tướng của nó, vọng chấp là có, là thường. Và luôn luôn quay cuồng theo vọng niệm phân biệt .

2/ Hành : Hành nghiệp, tác động chỉ chung cho những nghiệp lực của phiền não. Vì nhân vô minh nên các phiền não vọng khởi những nghiệp sai lầm, tư tưởng, hành động xa chân lý và hiểu biết mê mờ.

So với nhân quả trong ba đời, vô minh và hành là nghiệp nhân quá khứ. Nghĩa là, do hai món này làm nhân, để kết sinh chịu quả trong hiện tại.

3/Thức : Nghiệp thức phân biệt. Nghĩa là do sự mê mờ và hành động ở trên kết thành nghiệp thức phân biệt sai lầm. Vì sự phân biệt ấy, nên chấp có năng có sở. Năng là mình, sở là người và vật. Vì sự phân biệt, chấp trược ấy nên sinh lòng bảo thủ thân mạng. Những tâm niệm vui, buồn, thương, tiếc do đó phát sinh . Thức này là động lực luân hồi sinh tử. Trong ba nguyên liệu tạo tác và kết thành thân người tức là noãn ( hơi nóng ) và thụ ( cảm thụ ) và, nhờ thức này nên mới thụ thai.

4/ Danh sắc : Danh sắc là tổng báo thân của loài hữu tình khi còn ở trong thai tạng. Nhờ có tâm thức ( danh ) và sắc ( tứ đại ) hòa hợp nương tựa với nhau, nên thai chất mới được dần dần sinh trưởng không bị tiêu diệt.

5/ Lục nhập : Nghĩa là 6 căn xúc nhập với 6 trần nên gọi là " nhập ". Tuy còn ở trong thai tạng nhưng vẫn đầy đủ 6 căn ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý ) xúc nhập với 6 trần ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ). Tuy chưa được mạnh mẽ rõ ràng nhưng, nhờ sinh khí của 6 trần do người mẹ truyền vào để nuôi dưỡng, do đó thai chất mới được sống còn, sinh trưởng. Ấy gọi là " lục nhập " !

6/ Xúc : Xúc chạm, đối đãi. Nghĩa là, từ khi sinh ra trở về sau, trong thời gian còn nhỏ dại, tuy có các giác quan ( căn ) tiếp xúc với 6 trần ( cảnh ) nhưng chưa phân biệt, nhận lãnh, cảm thụ, một cách tự nhiên những cảnh vui, buồn, tốt, xấu v.v... chỉ có công năng xúc nhập nhưng, chưa phân tích rõ ràng nên gọi là " xúc ".

7/ Thụ : Nhận lãnh, cảm thụ. Đây bước qua một tầng bậc khác của sự sống. Khi xúc đối cảnh trần bên ngoài hiểu biết, phân biệt cảm thụ được vui, buồn, thương, ghét v.v... Như đứa bé con tuy cảnh đời còn mơ màng nhưng, nó đã biết khóc lóc trước cảnh đau, buồn, vui, cười trước cảnh may, sướng. Ấy là " thụ ".

Do nghiệp nhân quá khứ ( vô minh, hành ) chiêu cảm quả báo hiện tại ( thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thụ ). Phối với nhân quả trong ba đời, năm món này là quả báo hiện tại.

8/ Ái : Tham ái. Đã biết vui, buồn, thương, ghét nên sinh lòng tham ái, đắm trược những gì tốt đẹp hợp với sở thích, ruồng bỏ những gì xấu xa, buồn chán. Vì tâm tham ái nên phải nhọc lòng rong ruổi tìm cầu những điều sở thích. Tìm được thì vui, không tìm được thì buồn. Ấy gọi là " ái ".

9/ Thủ : Chấp thủ, gìn giữ. Nghĩa là, vì tâm đắm trược nên sinh lòng bảo thủ. Vật đã ưa thì đêm ngày mưu toan gìn giữ. Nếu vật thuộc của người thì tìm kế cướp đoạt. Do ái niệm sai xử nên tạo những ác nghiệp, ấy là " thủ ".

10/ Hữu : Tức là hữu lậu. Nghĩa là, do hai món ái, thủ xử làm những nghiệp nhân hữu lậu, nên phải kết sinh tương tục trong ba cõi, để chịu lấy khổ đau. Ban ngày ta ái niệm vật gì, ban đêm ta mơ màng thấy như vật ấy đã thuộc về sở hữu của ta, cho đến lúc tỉnh dậy ảnh tượng ấy cũng còn luôn luôn chập chờn trước mắt. Ấy là công dụng của " ái ", tức là " hữu ".

Nhân ba món ái, thủ, hữu làm nguyên nhân, nên đời sau phải thọ quả báo sanh tử. Phối hợp với nhân quả trong ba đời, ba món này là nghiệp nhân hiện tại, để vời lấy quả báo sinh, lão, tử ở tương lai.

11/ Sinh : Sinh mạng. Chỉ chung cho tổng báo thân của loài hữu tình ( tâm và sắc). Trong ấy gồm cả sinh lực, thể chất lẫn tinh thần, sống còn trong một thời gian do hành nghiệp quyết định.

12/ Lão tử : Lão là sự già yếu của thân thể và tinh thần. Thân thể yếu đuối, da nhăn má hóp và tất cả tế bào đều suy yếu. Suy nghĩ, cảm giác chậm trễ lười biếng không còn lanh lợi như lúc niên thiếu. Năng lực trong người mòn mõi dần dần, đến một ngày kia, tinh thần vật chất đều kiệt quệ, sự sống ấy sẽ kết liễu ( chết ).

Hai món trên này là quả báo đời vị lai nếu đem so sánh với nhân quả trong ba đời.

Kinh Đại Trang Nghiêm nói : " Do nghiệp phiền não đời quá khứ nên có thân hiện tại. Trong đời hiện tại lại tạo nghiệp, nên được thân vị lai. Ví như hạt lúa do các duyên hòa hợp mới thành cây mạ. Nhưng, hạt lúa ấy thực sinh ra mạ, vì hạt giống tiêu diệt nên mạ mới lớn lên ", đủ làm toát yếu và chứng minh cho định lý này vậy.

Nói tóm lại

Với những tài liệu trên đã tả chân mọi luận pháp của sự cấu tạo qua các tư tưởng của đạo giáo và học thuyết, đem lại một nhận định tùy thuộc tư tưởng cá nhân phê phán và lựa chọn.

Nhưng, riêng về đạo Phật, chúng ta nhận thấy sự cấu tạo chỉ là một chuỗi dây nhân quả chạy dài từ vô thủy tới vô chung. Trong đó, nếu đứng về mặt tương đối, thì phát nguyên là " nhất niệm mê mờ " vọng khởi ra nghiệp lực. Nghiệp lực ấy luôn luôn chuyển biến, huân tập kết thành chủng tử. Chủng tử gặp cơ duyên lại phát khởi ra hiện hành. hiện hành lại tạo tác, tập thành chủng tử. Cứ thế, cứ thế mãi, nó tương quan, tương duyên mật thiết với nhau trong vòng chuyển biến, sinh diệt, chứ không phải là tự nhiên hay ai sáng tạo ra nó.

Khi nào con người biết đi ngược lại với dòng lưu chuyển ( luân hồi ) tức là phải đoạn trừ vô minh. Vô minh hết thì trí tuệ sáng tỏ, thể nhận được chân tướng của vũ trụ là giả hợp, là vô thường, là biến ảnh của tâm thức. Đã hiểu biết như thế, thì trong không có tâm, ngoài không có cảnh, tâm năng tri đã không, cảnh sở tri cũng tịch, còn do đâu mà có ra sự gây nhân chịu quả trong luân hồi. Khi vô minh đã diệt, tất cả những chi nhánh cũng phải diệt và sẽ được vui sống trong cảnh giới giải thoát.

" Tất cả sự vật dù hữu hình hay vô hình, tâm hoặc ảnh đều do nhân duyên cấu hợp và chỉ là những ảnh tượng mê lầm của tâm thức biến hiện ".

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/10/2014(Xem: 8941)
Sợ hãi và lo âu là sản phẩm tưởng tượng của tâm bị ảnh hưởng bởi những điều kiện ở thế giới bên ngoài. Chúng có gốc rễ từ tham và bám víu. Thực ra, cuộc sống giống như một cuốn phim đang diễn ra, trong đó mọi thứ đều luôn chuyển động và thay đổi. Không có gì trong cõi đời này là thường hằng hay bất biến. Những người trẻ tuổi, khỏe mạnh thì sợ chết yểu. Người già yếu thì lo âu phải kéo dài kiếp sống. Giữa hai nhóm người này là những kẻ ước muốn sống vui vẻ cả đời. Những tham vọng đầy hào hứng về lạc thú thế gian dường như qua đi quá nhanh. Những ước đoán đầy sợ hãi về những điều bất an tạo nên sự lo âu thì dường như không bao giờ chấm dứt. Các cảm xúc đó cũng tự nhiên thôi. Những thăng trầm của cuộc sống đùa giỡn với ngã tưởng của ta, xem nó như một con rối trên sợi dây kéo, nhưng tâm ta thì bản chất của nó là siêu việt. Sự rèn luyện tâm, còn được biết đến như là văn hóa tâm linh, là bước đầu tiên tiến đến việc huấn luyện tâm bất ổn định. Đức Phật đã dạy, Ái sinh ra k
18/08/2014(Xem: 51831)
108 lời dạy của Đức Đạt-lai Lạt-ma được gom góp trong quyển sách tuy bé nhỏ này nhưng cũng đã phản ảnh được một phần nào tư tưởng của một con người rất lớn, một con người khác thường giữa thế giới nhiễu nhương ngày nay. Thật vậy tư tưởng của Ngài có thể biểu trưng cho toàn thể lòng từ bi và trí tuệ Phật Giáo trên một hành tinh mà con người dường như đã mất hết định hướng. Các sự xung đột không hề chấm dứt, con người bóc lột con người, giết hại muôn thú và tàn phá thiên nhiên. Phật giáo thường được coi như là một tín ngưỡng nhưng những lời khuyên của Đức Đạt-lai Lạt-ma trong quyển sách này vượt lên trên khuôn khổ hạn hẹp của một tôn giáo: - "Mỗi khi phải đề cập đến các vấn đề tâm linh thì không nhất thiết là tôi buộc phải nói đến các vấn đề liên quan đến tôn giáo (câu 87).
16/06/2014(Xem: 7626)
sanh trưởng trong một gia đình trí thức thượng lưu bên Pháp. Năm 20 tuổi, ông bỏ nhà sang Ấn Độ tu học Phật pháp dưới sự hướng dẫn của các thiền sư Tây Tạng, trong đó có Kangyur Rimpotché, sau này là sư phụ của ông. Đồng thời ông bắt đầu một luận án tiến sỹ về di tính tế bào. Về Pháp tiếp tục trong phòng thí nghiệm của François Jabob, ông trình luận án năm 1972. Sau đó, ông trở lại Ấn Độ theo học Phật pháp, tu hành, viết sách và tham gia xây dựng rất nhiều công trình từ thiện cho tới bây giờ. Nhờ sống bên Ấn Độ, ông rất thạo tiếng Tây Tạng và gần đây hay theo Đức Đạt Lai Lạt Ma dịch các diễn văn của Ngài sang tiếng Pháp.
14/05/2014(Xem: 7425)
Bài viết dưới đây được dịch từ một bản tiếng Pháp mang tựa là Compassion, medecin insurpassable (Lòng Từ Bi, một vị lương y vô song) của một học giả Phật Giáo rất uyên bác là bà Sofia Stril-Rever. Bài viết này được đăng trên tập san Dharma số 46 (tháng 10, 2003) với chủ đề Compassion et Médecine (Từ Bi và Y Khoa), độc giả cũng có thể tra cứu bài viết này trên mạng internet tại : http://www.buddhaline.net/La-compassion-une-energie-de Bài chuyển ngữ này là một trong loạt những bài với chủ đề "Quan điểm của Phật Giáo đối với sự đau đớn và bệnh tật". Các bài khác đã được phổ biến là: - Đức Phật thuyết giảng về sự đau đớn (Kinh Sallatha Sutta) - Đức Phật từng cảm nhận các giác cảm đau đớn (Kinh Sakalika Sutta) - Giáo huấn của Đức Phật về sự đau đớn và khổ đau (Rich Heller) - Thái độ của người Phật Giáo về sự đau đớn (Ajahn Brahmavamso Mahathera) - Cái chết là một thứ bệnh ung thư (Ajahn Liem) - Y khoa cũn
22/04/2014(Xem: 7187)
Một trong những nền tảng quan trọng của đạo đức Phật giáo là tuân theo tinh thần bất bạo động. Mục đích của tôi trong bài viết sau đây là trình bày những ảnh hưởng của lời nguyện ước này trong mối quan hệ với việc đối xử với phạm nhân. Chấp nhận trừng phạt có liên hệ đến chủ tâm bắt phạm nhân phải chịu thiệt hại, tôi lập luận rằng cách áp dụng trừng phạt là không phù hợp với nguyên tắc bất bạo động
26/03/2014(Xem: 5524)
Qua sự phát triển một thái độ trách nhiệm đối với người khác, chúng ta có thể khởi đầu thiết lập một thế giới thân ái và từ bi hơn mà tất cả chúng ta hằng mơ ước. Độc giả có thể đồng ý hay không sự ủng hộ của tôi về trách nhiệm toàn cầu.
12/03/2014(Xem: 22240)
Nghi thức Thọ Trì Đại Bi Sám Pháp (giọng tụng: TT Thích Nguyên Tạng) Kính lạy đời quá khứ Chánh Pháp Minh Như Lai Chính là đời hiện nay Quán Thế Âm Bồ tát Bậc thành công đức diệu Dũ lòng đại từ bi Nơi trong một thân tâm Hiện ra ngàn tay mắt
12/03/2014(Xem: 22783)
Trong một cuộc đàm thoại giữa thính chúng thuộc nhiều thành phân xã hội, là nhà truyền thông, nhà giáo dục, chính khách…Đức Đạt Lai Lạt Ma đã trả lời các câu hỏi về nhiều vấn đề đời sống xã hội của người tham dự một cách thẳng thắn và có duyên.
12/03/2014(Xem: 7543)
Cũng giống như một số nước đang phát triển khác mải lo bận rộn chuyện cơm áo cùng đủ thứ các vấn nạn về chính trị - xã hội, ở Việt Nam, vấn đề bảo vệ môi trường tuy ngày càng được chú ý nhiều hơn, nhưng một số khái niệm tương đối mới như Đạo đức học môi trường (Environmental Ethics), Đạo đức học về Trái Đất (Land Ethics, cũng gọi “Đại địa luân lý học”), Thần học sinh thái (Theology of Ecology),
11/03/2014(Xem: 10052)
Để thảo luận về vấn đề Hoà Bình theo quan điểm của Kim Cang Thừa ta cần tìm hiểu hai khái niệm Hoà Bình và Kim Cang Thừa cùng những truyền thống đặc sắc của Kim Cang Thưà. Trong phạm vi này, thì tìm hiểu tiến trình của Kim Cang Thưà trong mối quan hệ với các truyền thống Phật giáo khác và nhận thức về mối quan hệ gắn bó giữa Hoà bình và Kim Cang Thừa là vấn đề khả thi. Mặc dù Phật giáo Kim Cang Thừa có ở Trung Quốc, Nhật Bản và các nơi khác, nhưng tiểu luận sau đây sẽ đặt trọng tâm vào truyền thống Tây Tạng.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567