Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tín và Tuệ

01/04/201312:33(Xem: 5828)
Tín và Tuệ

Phat Thanh Dao_10

TÍN VÀ TUỆ TRONG THIỀN

Thiền sinh Ashin Ottama,

Tk. Chánh Kiến dịch - từ Mahasi-newsletter 8/95, Myanmar,

---o0o---

Nhiều người cho rằng đức tin và trí tuệ trong thiền quán (vipassanà) đối nghịch nhau, mâu thuẫn và không thể phối hợp.

Không phải vậy! chúng thân hữu và là hai nội lực quan trọng.

Trong thông tin vừa rồi, tôi đã viết về những điểm đặc thù và khác biệt giữa các hành giả châu Aù và phương Tây. Người Aù châu tìm đến lời dạy của đức Phật từ khía cạnh niềm tin tôn giáo, còn người mang giáo dục tây phương đạt tới giáo pháp hầu hết thuần túy từ góc cạnh kiến thức - trí tuệ. Tôi nghĩ rằng, chẳng ích lợi gì để đánh giá và so đo. Trong những dịp thích hợp, tín và tuệ hỗ trợ lẫn nhau, nên đức Phật dạy phải quân bình hai Căn quyết định này .

Có một sự hỗ tương mật thiết giữa tín và tuệ. Tôi nghĩ, ta có thể hiểu tương đối dễ dàng một nửa mối quan hệ này: Vì tuệ sanh tín. Tuy nhiên, chúng ta cần hiểu một nửa kia của mối quan hệ: do nhờ vững chắc tín ta đạt được trí tuệ.

Nếu chúng ta chỉ thiên về khía cạnh trí tuệ trong việc hành pháp, các căn (tín, tấn, niệm, định, tuệ) không thể quân bình và có thể tự tìm thấy mình lẩn quẩn trong suy tưởng không cùng, trong các quan niệm hay giao động tâm, thì trí tuệ thiền quán không phát triển nỗi.

Một người Miến Điện nói rằng: “đức tin đối với tâm quan trọng như tay đối với thân thể“. Chắc chắn rằng, thiếu bóng đức tin là cả vấn đề, như không có niềm tin, ta không thể khởi sự hay làm được bất cứ cái gì! không có sự tin tưởng, ngay cả việc đi xe bus ra phố cũng đi không nổi, do nghi ngại sợ hãi, tài xế có thể mang ta đi một nơi khác ý, hay tặng cho một tai nạn giao thông. Đức tin là đất màu cho mọi sự sống, mọi yếu tố lành mạnh của tâm trí.

Nhiều tác giả và dịch giả của kinh điển dành rộng chỗ cho việc phân biệt ba chữ “tín ngưỡng“, “tin cậy“, “niềm tin“ (faith, trust, confidence). Dịch từ chữ Pàli là saddhà ra “niềm tin“ thật là chính xác. Tuy nhiên, với nghĩa này tôi nghĩ chưa đầy đủ. Nghĩa của saddhà là một sự hòa hợp giữa tín ngưỡng và niềm tin (faith, confidence). Một nghĩa khác chính xác hơn có thể được tìm thấy trong việc tổng hợp hai ý nghĩa từ hai chữ tiếng Anh trên.

Sự khác biệt niềm tin của người Thiên chúa giáo và saddhà rất rõ ràng. Thiên chúa giáo đòi hỏi một đức tin không điều kiện. Saddhà, đức tin trong phật giáo luôn được quay lại từ kiến thức, hiểu biết, kinh nghiệm, hay trong ý nghĩa tuyệt vời nhất bằng trí tuệ tu chứng (trí văn, trí tư, trí tu). Có nhiều người phương tây thường nhạy cảm khi đề cập một cách đơn giản đến chữ “đức tin tôn giáo“, họ phản ứng mạnh mẽ do không đồng ý những tôn giáo Thượng đế phương Đông. Điều này, thực ra không cần thiết.

Khi hồi tưởng đời tôi, tôi vốn là người không có đức tin. Không là một kẻ viễn vông, tôi xác định là một người hiện thực. Tôi không thừa nhận đức tin tôn giáo, do không thấy đủ lý do và chứng cứ tốt để tin vào lời Chúa dạy và tánh tự cứu của niềm tin vào đấng Cứu thế.

Nhưng sau đó, ở lứa tuổi 20 đến 24 sau những loạt kinh nghiệm, tôi mới nghiệm rõ chiều hướng rộng rãi của tinh thần và tính ưu việt của nó. Chẳng bao lâu, tôi được tiếp xúc với Phật Pháp. Thực ra, đối với tôi điều này là một hệ quả hợp lý, tôi học Pháp và khởi sự hành thiền. Cũng khá lạ lùng! chỉ sau khi trụ vững trong Pháp, tôi bắt đầu hiểu Thiên Chúa giáo và thật sự thấy lợi ích của đức tin kiểu con chiên.

Vào những năm đó, tôi có khuynh hướng trì giữ việc hành thiền, tôi có khá đủ niềm tin và đức tin. Tuy nhiên, tôi khó thấy có cái gì tốt đẹp trong việc sùng bái. Hoàn toàn ngược lại, tôi nghĩ rằng người sùng bái tự chuốc thất vọng và làm suy yếu Phật Pháp trong họ.

Kiểu này tiếp diễn một số năm. Cuối cùng, trong một thời hành thiền với một thiền sư Miến Điện, tôi mới dám quyết định một thử nghiệm. Trong mùa kiết hạ, tôi dẹp ngang một bên mọi điều hợp tình, hợp lý, theo đuổi một cách trọn vẹn, đặt trọn tâm tư một cách thành thật tất cả hành động sùng kính như được đòi hỏi. Hiệu quả thật đáng ngạc nhiên, tôi bừng sáng từ nội tâm, sáng suốt nhanh chóng lạ, việc hành thiền cũ kỹ vỗ cánh bay xa và trong thời gian ngắn ngủi của một mùa kiết hạ tôi đã vượt qua giai đoạn khó khăn trong sự tu tập của tôi. Tôi khám phá ra TÍN LỰC. Từ đó về sau tôi không bao giờ làm ngã lòng lối sùng bái trong việc tu hành của ai cả.

Đức tin của tâm linh không có gì liên quan đến những kết cuộc luận lý và những lý lẽ hợp tình. Khi chúng ta càng giữ thái độ nghi ngờ, ưa chỉ trích, không tin tưởng, thành kiến và ngã chấp, thì chẳng làm được gì cả, ta sẽ không liên hệ gì tới đặc tính của đức tin. Đức tin nghĩa là nhảy vào biển Pháp không cần áo cứu hộ!

Đức tin và sùng tín thúc giục mạnh mẽ sự quan trọng của thị dục huyễn ngã và sự quan trọng trong chính chúng ta - sao không tự hỏi rằng có lúc ta xúc cảm khi đối diện một vấn đề nào đó, đức tin và sùng tín được khai triển cùng ý tưởng tâm linh. Nếu ta không cân bằng kiến thức và trí tuệ, có một nguy cơ của niềm tin mù lòa, có thể đưa đến cuồng tín hay ám ảnh bởi tôn giáo. Báo chí cho những dẫn chứng về những sự méo mó nguy hiểm về tinh thần thật đáng thương, diễn ra mỗi ngày (những giáo phái tận thế, những cố chấp hay chiến tranh tôn giáo .v.v...)

Năm rồi, mỗi chiều đều có đàm đạo tại trường chúng ta. Vào một lần, suy tưởng về “đức tin“, chúng tôi đi đến một vấn đề thú vị: “Đức Phật có đức tin không?“ niềm tin tưởng của tôi là Ngài đã thay đức tin của Ngài bằng sự chắc chắn và hiển nhiên: chúng ta không cần có niềm tin về sự việc hiển nhiên như phòng này có cửa vậy, có thể thấy và sử dụng tùy ý. Cũng như Đức Phật không cần tin vào Pháp khi Ngài có thể thấy mọi khía cạnh của Pháp đầy đủ, rõ ràng và hiển nhiên bất cứ khi nào Ngài quán xét Pháp. Những thiền sinh Miến Điện bằng trực giác không đồng ý với tôi, nhưng hôm đó không ai giảng giải đầy đủ về điểm này.

Khi có một vấn đề trong việc hiểu pháp, Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) thường là trợ thủ đắc lực. Tín (Saddhà) được phân loại là một trong 52 sở hữu tâm. Trong phần sở hữu tịnh hảo, nó được đề cập ở vị trí hoa tiêu cùng với 18 sở hữu tịnh hảo khác. Tín hiện diện trong mỗi trạng thái tâm thức lành mạnh của hiệp thế và siêu thế. Nghĩa là đức tin, một chi phần câu hữu trong thiền định, Đạo – Quả! Tín cũng hiện diện trong những tâm Duy tác, tâm quả của vị A La Hán. Trong ánh sáng này, Đức Phật là một ví dụ tiên phong cho mọi niềm tin và đức tin thường hằng.

Khám phá này gây ngạc nhiên cho tôi. Tôi bắt đầu hiểu các dạng đức tin khác nhau. Một là niềm tin tự phát, hai là đức tin đặt cơ sở trên tự do của nhận thức. Tâm tánh người phương Tây thường đặt vấn đề với dạng thứ nhất, dạng bẩm tánh tin. Tuy nhiên, chắc chắn là chúng ta không phản bác giai đoạn cao hơn của đức tin, nó là tâm thanh tịnh, rõ ràng và trong sáng. Phải chăng?

Tín là tâm lực, nó như khai mở tâm trí ta. Tuy nhiên, để đạt được tâm lực này, ta cần nỗ lực hơn hết, nó thường không phải do trời già ban phát. Để phát triển tín lực, ta cần có một ý tưởng thích hợp tuyệt đối như sự giác ngộ viên mãn của một vị Phật hoàn hảo. Sự thực hành này thường xuyên bắt đầu từ sự nương nhờ Tam Bảo.

Một con đường đăng đẳng từ việc nghiềm ngẫm một cách bị động vào sự quy ngưỡng đến khi gội rửa trọn vẹn trong tâm trí ta những gì tồn đọng, như những khái niệm, thành kiến và ngã chấp... tất cả những gì nương tựa vào để sống, dẹp bỏ mọi đôi nạng tâm linh trong đời. Đức tin không là một con đường dễ đi .

Đức tin y như Kinh được so sánh với viên ngọc lọc nước mà người ta cho là vật sở hữu của các vua dòng Thích Ca, ngọc này khi bỏ vào chậu nước bùn, sẽ khiến nước hóa trong và sạch ngay tức khắc. Cũng vậy, tâm sung mãn tín chợt trở nên trong sáng và thanh tịnh. Tất cả sương mù chướng ngại của sự hoài nghi có thể làm tê liệt thiền định của ta một cách hữu hiệu sẽ lắng dịu ngay lúc ấy.

Đức tin thường được nhận thức như điểm khởi sự cần thiết cho việc thực hành của trí tuệ thiền định. Việc thấu hiểu đức tin này thực sự đúng đắn, nhưng nó không truyền đạt toàn bộ hình bóng năng lực và sự quan trọng của đức tin. Bằng thiền quán thâm hậu, ta bắt đầu hiểu ra đời ta bằng trí tuệ tăng trưởng, ta bắt đầu phân biệt và quán xét ba đặc tính chính yếu của mọi hiện tượng: vô thường, khổ não và vô ngã. Ở mức thiền cao hơn, cả ba pháp ấn này trở nên rõ rệt. Tuy nhiên, một trong ba sẽ trở thành cảnh trưởng, dẫn đầu cảnh của tâm, là cánh cửa đạt đến trí tuệ viên mãn. Một cách tương xứng ở thiền quán, mục đích có thể đạt được từ ba khía cạnh trên, có ba lối dẫn đến Níp - Bàn.

Những người đến Đạo Quả qua cánh cửa quán xét VÔ THƯỜNGlà người có một đức tin mãnh liệt và sự quyết định mạnh mẽ. Những hành giả này ngay lúc giác ngộ viên mãn được gọi là Saddhà vimuttà, tức Tín giải thoát, thoát khổ bằng đức tin. Cánh cửa quán xét KHỔ NÃOđược những người trọng về Định và Tịnh bước qua, Tâm giải thoát. Cửa còn lại qua cách quán VÔ NGÃdo người phát triển trí và tuệ nổi bật. Tuệ giải thoátlà sự thoát khổ bằng trí tuệ ở những hành giả này.

Trong kinh, đức tin được hệ thống thành bốn loại. Loại đầu, sơ thủy của đức tin được đặt nền tảng trên tướng mạo, hình thức bề ngoài, do tập quán, văn hóa hay truyền thống cửu huyền thất tổ để lại. Người phương tây thường phản bác niềm tin kiểu này.

Hai là đức tin hướng trực tiếp đến những ân đức Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Được hổ trợ do một loại hiểu biết và kinh nghiệm cá nhân nào đó. Cả hai đức tin này không vững chắc và có thể bị sai lạc, mất gốc hay tiêu hoại.

Có ý nghĩa nhất là loại đức tin thứ ba, tương quan với trí tu thâm sâu. Đó là đức tin của vị thánh đệ tử, đức tin của người đã thấy pháp bằng chính kinh nghiệm cá nhân. Sơ đạo - Sơ quả đã tận diệt hoài nghi pháp. Đó là nền tảng vững chắc của Thánh tín, bất động không thể lung lay. Không thể biến hoại, niềm tịnh tín này không thể biến hoại cho dù lăn trôi trong sanh tử luân hồi.

Loại đức tin cuối cùng thuộc về Bồ tát, một phàm nhân trì giữ đức tin tồn tại qua suốt nhiều kiếp hiện hữu.

Những hành giả phương tây thường thì khó bị hấp dẫn bởi việc bàn thảo về đức tin. Tuy nhiên, tôi mong rằng đã thành công ít nhiều trong việc chỉ ra ác cảm của đa số hành giả tây phương về khía cạnh đức tin của việc hành thiền. Phần lớn là hiểu lầm! Ai có thể bác bỏ một tâm trí không tỳ vết, thông đạt, rạng rỡ và sáng ngời?

Việc hành thiền dưới hảo tướng của đức tin thường được xem là con đường ngắn nhất và trực tiếp nhất để đạt mục đích tối hậu. Có lẽ việc này có thể giải thích sự thật phần nào về các hành giả Miến Điện, có đức tin tôn giáo mạnh mẽ, tôn sư trọng đạo, đạt đến giai đoạn trí tuệ dễ hơn, thường trong thời gian ngắn một cách đáng ngạc nhiên!

Tất cả chúng ta thường chạy theo cảnh của tâm phóng dật, hoang vu. Còn những người đó đạt đến đức tin thực thụ, có thêm phương tiện mạnh mẽ để ứng dụng và sử dụng. Nếu ta có thể nương tựa nơi đức tin sâu sắc, ta có khả năng giải quyết một cách hiệu quả hơn các nan giải trong khi hành thiền cũng như trong đời sống. Hơn thế nữa, ta có thể lợi dụng những khó khăn này, tương kế tựu kế để mang lại ích lợi và tu tiến vượt bậc lên.

Đôi khi sự e ngại luân hồi thúc đẩy pháp hành của chúng ta. Đây là lực đẩy. Lúc khác ta lại cảm nhận sự thanh tịnh và trí tuệ vô song của pháp cùng sự giác ngộ của Đức Phật một cách hứng khởi. Đây là lực kéo ta về.

ĐỨC TIN, đẩy hay kéo - nhắm mà HÀNH!

---o0o---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/09/2010(Xem: 6979)
Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
22/09/2010(Xem: 6245)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
10/09/2010(Xem: 58509)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
06/09/2010(Xem: 6849)
“Trước sự Nô Lệ của Con Người” là nhan đề chúng tôi dùng để gọi tập sách này, gồm những bài viết và những bài thảo luận quan trọng mà chúng tôi đã trình bày trong những hội nghị quốc tế và quốc nội. Những vấn đề đặt ra trong tập sách đều nhắm vào một trọng tâm độc nhất: tìm lại con đường của văn hoá Việt Nam trước sự nô lệ của con người để khai quan một chân trời cho ý thức tự do của nhân tính
03/09/2010(Xem: 5208)
Khi thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng. Những liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.
30/08/2010(Xem: 3866)
Theo lịch sử tiến hóa của loài người, từ thời kỳ nguyên thủy, dân số trên trái đất này còn rất ít. Vì thế, sự ưu đãi của thiên nhiên mà con người được thừa hưởng rất lớn. Dĩ nhiên lúc đó, người ta không phải đặt vấn đề về kinh tế, mọi người chỉ sống và hưởng thụ tài sản của thiên nhiên một cách đơn giản. Nhưng đến giai đoạn dân số được phát triển với đời sống con người được tập hợp thành bộ tộc thì vấn đề bắt đầu xảy ra, vì đã xuất hiện sự tranh chấp về những nguồn lợi thiên nhiên.
30/08/2010(Xem: 6438)
Chưa bao giờ con người ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn để hưởng thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể.
30/08/2010(Xem: 8177)
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với kinh tế học và ngược lại.
30/08/2010(Xem: 5830)
Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiểu lập trường của Phật giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chính trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đều muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì?
28/08/2010(Xem: 61328)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]