Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phát Bồ Đề Tâm

22/08/201909:25(Xem: 11027)
Phát Bồ Đề Tâm

Lớp Học Hàm Thụ cho Trại Sinh A Dục
 Gia Đình Phật Tử Úc Đại Lợi


Phát Bồ Đề Tâm

Soạn và giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Chủ Nhật: 04/08/2019 từ 7pm đến 9.30pm



I/Giới thiệu:
Bồ đề tâm là tâm giác ngộ, phát Bồ đề tâm là hướng tâm của mình giác ngộ và giải thoát với mục tiêu tối hậu “ Thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh

 

II. Định nghĩa:
Bồ đề tâm, tiếng Phạn gọi là Bodhicitta, còn được gọi là Giác tâm, là tâm hướng đến giác ngộ, tâm an trú trong giác ngộ, tâm của sự giác ngộ.

Chữ Phát có nhiều nghĩa như phát sinh, phát khởi, phát hiện, phát triển, phát minh. Phát Bồ đề tâm là phát khởi cái chí nguyện mong cầu đạt đến Vô thượng Bồ đề.

Phát Bồ đề tâm là đặt ra mục tiêu tối hậu ngay từ lúc khởi đầu là hướng tâm đến lộ trình tu tập giải thoát và giác ngộ.

 

III. Nội dung:


Theo Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm của Đại Sư Thật Hiền (1685- 1734) đời nhà Thanh Trung Hoa (theo Tục Tạng tập 109 trang 321) thì sắc thái tâm nguyện có tám, đó là  Tà và Chánh, Chân và Ngụy, Đại và Tiểu, Viên và Thiên.

1/ TÀ:  người tu hành mà chỉ tu một chiều, không cứu xét tự tâm, chỉ lo những việc ở ngoài, hoặc vụ lợi, hoặc háo danh, hoặc ham cái thú hiện tại, hoặc cầu cái vui mai sau: phát tâm như vậy gọi là Tà.

2/ CHÁNH: Danh lợi không ham, vui thú không màng, chỉ vì thoát sinh tử, vì chứng Bồ đề: phát tâm như vậy gọi là Chánh.

3/CHÂN: Ý niệm này nối tiếp ý niệm khác, ngước lên mà mong cầu Phật đạo, tư tưởng trước liên tục tư tưởng sau, nhìn xuống mà hóa độ chúng sanh, nghe Phật đạo lâu xa cũng không thoái chí khiếp sợ, xét chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi, như trèo núi cao cả vạn trượng cũng quyết tận đỉnh, như lên tháp lớn đến chín tầng cũng cố tột nóc: phát tâm như vậy gọi là Chân.

4/ NGỤY: Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong bẩn ngoài sạch, trước siêng sau nhác, tâm tốt dẫu có cũng phần lớn bị danh lợi xen lấn, thiện pháp dẫu tu cũng phần nhiều bị vọng nghiệp nhuốm bẩn: phát tâm như vậy gọi là Ngụy.

5/ĐẠI: Chúng sanh độ hết nguyện ta mới hết, Bồ đề đạo thành nguyện ta mới thành: phát tâm như vậy gọi là Đại.

6/ TIỂU:  Xem ba cõi như lao ngục, nhìn sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không dám độ người: phát tâm như vậy gọi là Tiểu.

7/ THIÊN: Nếu ngoài tâm thấy có chúng sanh, có Phật đạo (ngoài tự tánh), rồi nguyện độ, nguyện thành, công phu không xả, thấy biết không tan (dứt sạch): phát tâm như vậy gọi là Thiên.

Thấy chúng sanh và Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không dứt, phát tâm như thế gọi là thiên.
 8/ VIÊN: Nếu biết tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo nên nguyện thành tựu, không thấy một pháp nào ngoài tâm mà có, đem cái tâm vô tướng phát cái nguyện vô tướng, làm cái hạnh vô tướng, chứng cái quả vô tướng, cái tướng vô tướng cũng không thấy có được: phát tâm như vậy gọi là Viên.

Sau khi Phật tử đã biết 8 sắc thái lập tâm nguyện Bồ đề rồi, ta hãy loại 4 tâm: Tà, Ngụy, Tiểu và Thiên, ta chỉ chọn 4 tâm: Chánh, Chân, Đại và Viên. Có vậy mới gọi là Phát Bồ Đề Tâm.

 

IV. HÀNH TRÌ BỒ ĐỀ TÂM:

Hành giả muốn thành tựu Bồ đề tâm, phải hành trì đủ 10 điều sau:


1. Nhớ ơn nặng của Chư Phật: Mười phương ba đời chư Phật xót thương chúng sanh ngu muội mê lầm mà thị hiện thiên bách ức hóa thân, sử dụng vô lượng phương tiện để khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Công đức ấy cao dầy nói sao cho hết.
2. Nhớ ơn Cha Mẹ: Nhẩm tính cho đến hôm nay ta được thân người, nghĩa là đã trải vô lượng kiếp rồi. Cha mẹ nhiều đời lao nhọc, nay đã trụ ở phương sở nào, làm sao trả được công đức sâu dày, ngoài cách thường hành Phật pháp, độ khắp chúng sanh.
3. Nhớ ơn Sư Trưởng: Nay ta hiểu biết, rõ thấu đạo Bồ đề ấy cũng nhờ Sư trưởng khai tâm mở trí cho ta. Nay phải phát tâm Bồ đề độ khắp chúng sanh, trong đó có sư trưởng. Đó là cách đền ơn thân mật vi diệu.
4. Nhớ ơn Thí Chủ: Đàn na thí chủ mười phương tin tưởng hộ trì mà Phật pháp có phương tiện hành trì, phát đạt thấm đượm đến mình.
5. Nhớ ơn Chúng Sanh: Ta và chúng sanh đòi hỏi đắp bồi làm cha mẹ, vợ con, anh em thân bằng của nhau, vì thế mà nay ta quyết nhớ ơn, không khởi tâm loạn động, nghĩ đến sự xấu ác ngăn ngại.
6. Nhớ khổ sanh tử: Sanh tử là cửa lên xuống vào ra của ta trong sáu đường ba cõi, đau khổ khôn cùng nên nay không dám dải đãi, phải phát tâm bồ đề.
7. Tôn trọng Phật tánh của mình: Ta phải tin vào khả năng thành Phật của mình, phải sanh tâm hổ thẹn. Chư Phật và  ta vốn đồng bản thể, ấy vậy mà ta đã bao đời trầm luân để quý Ngài phải lao nhọc bôn ba hóa độ.
8. Sám hối nghiệp chướng: Đã nhiều kiếp vô minh che lấp, nay được duyên lành gặp được thiện trí, quyết tu hành hồi hướng công đức này cho khắp chúng sanh để tiêu trừ nghiệp chướng, nhất là tâm phát lồ sám hối.
9. Cầu sanh Tịnh Độ: Chỉ có Tịnh độ là hội đủ thắng duyên, đã trút gánh nặng tử sanh, nên cầu về đó để tiếp nối tiến trình tu chứng.
10. Phải đóng góp công sức giúp Phật Pháp tồn tại lâu dài: Phật đã vì lòng bi xót thương chúng sanh, đã trải qua muôn ngàn trăm ức kiếp tìm ra con đường giải thoát giác ngộ. Công đức ấy cao sâu không sánh nổi, ta không gia công hoằng hóa tài bồi còn đợi đến bao giờ.

 

V. KẾT LUẬN:

 Trong KINH ƯU BÀ TẮC GIỚI

Trong kinh Ưu Bà Tắc Giới có ghi rằng: Muốn tăng trưỡng hạt giống Bồ Đề thì nên làm 5 việc nầy:

(1)- Tự mình không nên tưởng điều khinh thường mà nói rằng mình chẳng được quả Chánh-đẳng Chánh-giác.

(2)- Tự mình chịu khổ mà tâm không chán nãn hối hận.

(3)- Tu hành tinh tấn không ngừng không nghỉ.

(4)- Cứu độ vô lượng khổ não của chúng sanh.

(5)- Thường xưng tán công đức nhiệm mầu của Tam Bảo

 

Hành giả cầu quả Bồ Đề nên làm 8 việc nầy:

(1)- Gần gủi bạn lành.

(2)- Giữ tâm kiên cố không hoại.

(3)- Làm đặng việc khó làm.

(4)- Thương xót chúng sanh.

(5)- Thấy người có lợi, sanh tâm vui mừng.

(6)- Thường ưa khen tặng công đức người khác.

(7)- Thường tu tập Pháp Lục Niệm : (không sát sanh, không tà dâm, không trộm cắp, không vọng ngữ, không uống rượu, không ăn sau giờ ngọ).

(8)- Thường hay giảng thuyết về chỗ lỗi lầm trong đường sanh tử.


Hành giả phải hun đúc chí nguyện, hoài bảo và hành trì miên mật, để Bồ đề tâm không thối chuyển, vì theo Kinh Hoa Nghiêm đã cảnh báo rằng “ Vong thất Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp”, có nghĩa là: “Quên mất Bồ Đề Tâm mà tu các pháp lành, đó là ma nghiệp”.  Phát Bồ Đề Tâm có thể tóm tắt trong bài kệ Tứ Hoằng Thệ Nguyện mà chúng ta có thể trì tụng mỗi ngày :

 

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.”

Dịch nghĩa:

“Chúng sanh không số lượng

Thề nguyện đều độ khắp

Phiền não không cùng tận

Thề nguyện đều dứt sạch

Pháp môn không kể xiết

Thề nguyện đều tu học

Phật đạo không gì hơn

Thề nguyện được viên thành “.

 

Câu Hỏi Trắc Nghiệm
Lớp Giáo Lý Trại A Dục:
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

do TT Thích Nguyên Tạng
giảng tối Chủ Nhật 4-8-2019


*Xin quý anh chị chọn câu trả lời và khoanh tròn phần đúng nhất:

 

1/Phát Bồ Đề Tâm là:
a.Phát khởi kế hoạch cắm trại cho tổ chức GĐPT với chủ đề trại “Bồ Đề Tâm”
b.P
hát khởi chí nguyện mong cầu đạt đến Giác Ngộ và Giải Thoát
c.Phát khởi chí nguyện tu tập để vãng sanh về cõi trời Đạo Lợi

2. Bồ Đề Tâm còn gọi là:
a. Bodhisutta / Empty-mind
b. Bodhisatratta /Peaceful-mind
c. Bodhicitta / Enlightenment-mind

3. Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm được biên soạn bởi:
a. Đại Sư Thật Hiền (1685-1734)
b. Đại Sư Thích Thiện Hoa (1918-1973)
c. Bác Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897-1969)

4. Tám sắc thái của Tâm là: 
a. Tà và Chánh, Hư và Ngụy, Trung và Tiểu, Viên và Tròn
b. Tà và Chánh, Chân và Như, Đại và Không, Viên và Thành.
c. Tà và Chánh, Chân và Ngụy, Đại và Tiểu, Viên và Thiên.

5. Lời Phật cảnh báo “Quên mất Bồ Đề Tâm mà tu các pháp lành, đó là ma nghiệp” được Ngài nói trong Kinh:
a. Kinh Pháp Hoa
b. Kinh Hoa Nghiêm
c. Kinh Di Đà





Phat thuyet phap 4

Giáo Trình hướng dẫn Gia Đình Phật Tử

Phát Bồ Đề Tâm

I. TIỂU DẪN:
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành.
Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.

GIỚI THIỆU XUẤT XỨ
PHÁP MÔN PHÁT BỒ ĐỀ TÂM.
Trong kinh Đại Phương Tiện ghi lại rằng: Sau khi Ngài A Nan bị Ni Kiền Tử vấn nạn: “Cù Đàm, bổn sư của Ngài là kẻ bất đứùc, vì mới sanh ra mẹ đã mất, vợ là kẻ hiền thục mà từ bỏ đi tu là bất nghĩa, vợ hiền con ngoan mà đem cho kẻ khác mặc tình sử dụng là bất nhân. Không tiếp nối giữ gìn Vương nghiệp mà Tịnh Phạn Vương một đời nhân đức tạo dựng, dân chúng an cư, đất nước phú cường là bất trung. Là con một mà bỏ cha để cha rầu buồn là bất hiếu. Tôn kẻ bất đức, bất nghĩa, bất nhân, bất trung, bất hiếu làm thầy là vô trí”.
Ngài A Nan buồn rầu trở về gặp Phật. Phật đã ân cần giải nghi cho Ngài. Ngài sung sướng bạch Phật nên thương xót chỉ cho Ngài và đại chúng pháp môn dễ tu dễ chứng nhất để hạ thủ tu trì. Phật dạy pháp môn thù thắng nhất, Phật tử nên hạ thủ, đó là phải biết tri ân và báo ân.
Sau một lúc suy nghĩ, A Nan bạch tiếp: “Pháp môn này nghe thì dễ nhưng ân đã thọ thì vô biên, thứ lớp hạ thủ khó sâu, xin Phật chỉ rõ cho cách thức hạ thủ”. Phật khen ông khéo nói và bảo rằng: “Cách tri ân, báo ân thù thắng nhất là tự mình phát Bồ đề Tâm và khuyến khích kẻ khác cùng phát tâm Bồ đề như vậy”.

II. ĐỊNH NGHĨA:
Phát là mở ra, khởi lên hoặc dựng nên, Bồ đề là giác ngộ, là thấy biết tự tánh thanh tịnh bất nhiễm, là bản lai diện mục của chính mình.
Chữ Tâm có rất nhiều nghĩa. Thế tục hiểu đó là trái tim, là tấm lòng, còn nghĩa đầy đủ của Phật là Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm, cái Tâm có công năng thấy biết chân thật tánh tướng của vạn pháp, rõ thấu đường lối dắt dìu chúng sanh ra khỏi khổ đau phiền não, thắng vượt mọi khó khăn chướng ngại của nghiệp duyên khổ đau và tử sanh.
Phát Bồ Đề Tâm là đứng ở địa vị chúng sanh, y nương theo pháp bảo, vạch con đường đi đến Phật quả, đạt được cái tâm nguyện Bồ đề như đã nêu trên, nên gọi là Phát Bồ đề tâm.

III. NỘI DUNG:
Theo Tục Tạng tập 109 trang 321 thì sắc thái tâm nguyện có tám đó là Chánh, Tà, Chân, Ngụy, Đại, Tiểu, Viên, Thiên.
1. Chánh: Danh lợi không ham, vui thú không màng, chỉ mong ra khỏi luân hồi, chứng đạt Bồ đề quả vị, phát tâm như vậy gọi là Chánh.
2. Tà: Phát tâm tu hành mà mưu cầu danh tiếng lợi lạc, ham cái thú hiện tại hoặc cầu cái vui tương lai, phát tâm như vậy gọi là Tà.
3. Chân: Chỉ một lòng một dạ, ngước lên thì cầu Phật đạo, nhìn xuống chỉ mong hóa độ chúng sanh, dù cho gian khổ nghịch cảnh chướng duyên, lòng không chán mỏi thối chuyển. Phát tâm như vậy gọi là Chân.
4. Ngụy: Có tội không sám, có lỗi không cải, thiện pháp dẫu tu, vọng nghiệp khó dứt. Tâm từ dẫu có mà danh lợi vẫn thắng. Phát tâm như vậy gọi là Ngụy.
5. Đại: Chúng sanh đặng quả vô sanh an lạc, nguyện ta mới dứt. Tất cả đều đắc đạo Vô thượng, nguyện ta mới thành. Phát tâm như vậy gọi là Đại.
6. Tiểu: Coi 3 cõi như lao ngục, xem sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ không dám độ tha. Phát tâm như vậy gọi là Tiểu.
7. Viên: Nếu biết tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát, Tự tánh là Phật nên nguyện thành, đem cái tâm vô tướng, phát cái nguyện vô tướng, chứng cái quả vô tướng, cái tướng vô tướng cũng không thấy còn. Phát tâm như vậy gọi là Viên.
8. Thiên: Nếu ngoài tâm thấy có chúng sanh có Phật đạo rồi nguyện độ nguyện thành, công phu không xả, thấy biết không tan. Phát tâm như vậy gọi là Thiên.
Sau khi Phật tử đã biết 8 sắc thái lập tâm nguyện Bồ đề rồi, ta chỉ chọn 4 sắc thái đó là: Chánh, Chân, Đại, Viên. Có vậy mới gọi là Phát Bồ Đề Tâm.

IV. NGUYÊN DO NÀO PHẬT TỬ PHÁT BỒ ĐỀ TÂM:
Như phần II đã ghi, điều cần và đủ, mà người Phật tử phải nên làm là tinh thần Biết ơn và trả ơn. Mười lý do sau đây nói lên được cái ý nghĩa tha thiết đó:
1. Nhớ ơn Phật rất nặng: Mười phương ba đời chư Phật xót thương chúng sanh ngu muội mê lầm mà thị hiện thiên bách ức hóa thân, sử dụng vô lượng phương tiện để khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Công đức ấy cao dầy nói sao cho hết.
2. Nhớ ơn cha mẹ: Nhẩm tính cho đến hôm nay ta được thân người, nghĩa là đã trải vô lượng kiếp rồi. Cha mẹ nhiều đời lao nhọc, nay đã trụ ở phương sở nào, làm sao trả được công đức sâu dày, ngoài cách thường hành Phật pháp, độ khắp chúng sanh.
3. Nhớ ơn Sư trưởng: Nay ta hiểu biết, rõ thấu đạo Bồ đề ấy cũng nhờ Sư trưởng khai tâm mở trí cho ta. Nay phải phát tâm Bồ đề độ khắp chúng sanh, trong đó có sư trưởng. Đó là cách đền ơn thân mật vi diệu.
4. Nhớ ơn thí chủ: Đàn na thí chủ mười phương tin tưởng hộ trì mà Phật pháp có phương tiện hành trì, phát đạt thấm đượm đến mình.
5. Nhớ ơn chúng sanh: Ta và chúng sanh đòi hỏi đắp bồi làm cha mẹ, vợ con, anh em thân bằng của nhau, vì thế mà nay ta quyết nhớ ơn, không khởi tâm loạn động, nghĩ đến sự xấu ác ngăn ngại.
6. Nhớ khổ sanh tử: Sanh tử là cửa lên xuống vào ra của ta trong sáu đường ba cõi, đau khổ khôn cùng nên nay không dám dải đãi, phải phát tâm bồ đề.
7. Trọng tánh linh Phật của mình: Ta phải tin vào khả năng thành Phật của mình, phải sanh tâm hổ thẹn. Chư Phật và  ta vốn đồng bản thể, ấy vậy mà ta đã bao đời trầm luân để quý Ngài phải lao nhọc bôn ba hóa độ.
8. Sám hối nghiệp chướng: Đã nhiều kiếp vô minh che lấp, nay được duyên lành gặp được thiện trí, quyết tu hành hồi hướng công đức này cho khắp chúng sanh để tiêu trừ nghiệp chướng, nhất là tâm phát lồ sám hối.
9. Cầu sanh Tịnh Độ: Chỉ có Tịnh độ là hội đủ thắng duyên, đã trút gánh nặng tử sanh, nên cầu đến để tiếp nối tiến trình tu chứng.
10. Làm cho Phật giáo tồn tại lâu dài: Phật đã vì lòng bi xót thương chúng sanh, đã trải qua muôn ngàn trăm ức kiếp tìm ra con đường giải thoát giác ngộ. Công đức ấy cao sâu không sánh nổi, ta không gia công hoằng hóa tài bồi còn đợi đến bao giờ.


V. KẾT LUẬN:

Để hun đúc chí hướng, hâm nóng tâm can, ý nguyện và hành động không được sao nhãng thoái tâm, người Phật tử chúng ta phải phát lập tâm nguyện Bồ đề. Đó là cách xác lập chí hướng tâm nguyện thù thắng.

 
***


English Vesion by Hoa Chí


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2010(Xem: 4732)
Khi thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng. Những liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.
30/08/2010(Xem: 3585)
Theo lịch sử tiến hóa của loài người, từ thời kỳ nguyên thủy, dân số trên trái đất này còn rất ít. Vì thế, sự ưu đãi của thiên nhiên mà con người được thừa hưởng rất lớn. Dĩ nhiên lúc đó, người ta không phải đặt vấn đề về kinh tế, mọi người chỉ sống và hưởng thụ tài sản của thiên nhiên một cách đơn giản. Nhưng đến giai đoạn dân số được phát triển với đời sống con người được tập hợp thành bộ tộc thì vấn đề bắt đầu xảy ra, vì đã xuất hiện sự tranh chấp về những nguồn lợi thiên nhiên.
30/08/2010(Xem: 5818)
Chưa bao giờ con người ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn để hưởng thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể.
30/08/2010(Xem: 6964)
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với kinh tế học và ngược lại.
30/08/2010(Xem: 5279)
Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiểu lập trường của Phật giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chính trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đều muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì?
28/08/2010(Xem: 52889)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 6704)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 51975)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
08/08/2010(Xem: 3394)
Làm sao để mọi người đều có thể áp dụng lối sống lành mạnh? Làm sao để xã hội phát triển bền vững, hài hòa? Làm sao để mỗi người được sống hạnh phúc? Tại sao nhiều người đã biết rằng hút thuốc, uống rượu và sử dụng các chất gây nghiện là có hại cho sức khỏe mà họ vẫn không từ bỏ nó? Tại sao nhiều người biết rằng khí hậu toàn cầu đang biến đổi theo chiều hướng bất lợi đối với trái đất nhưng hàng ngày vẫn có những hành động trực tiếp, gián tiếp làm tổn hại đến môi trường sống?...
03/08/2010(Xem: 12464)
Mặc dù được xem như là một tôn giáo, thì Phật giáo vẫn là một trong các truyền thống tri kiến vĩ đại nhất của thế giới, được dựa trên cơ sở về trải nghiệm và lập luận hơn là việc tin tưởng không điều kiện vào thần quyền. Trong nhiều thế kỷ, đạo Phật đã đối thoại với các truyền thống khác ở châu Á như là Ấn giáo, Khổng giáo và Lão giáo, đó là các truyền thống vốn có các luận điểm riêng về thực tại. Nhưng đến kỷ nguyên mới này, thì sự thống trị lại thuộc về khoa học hiện đại vốn là một hệ thống truy cứu và tri kiến về thế giới tự nhiên một cách có lập luận, cho nên nếu muốn duy trì vị thế sẵn có như là một truyền thống thực nghiệm và tập luận truy cứu nghiêm cẩn, thì Phật giáo phải đối mặt với khoa học.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567