Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tứ Trọng Ân

25/11/201818:58(Xem: 6266)
Tứ Trọng Ân

Phat thuyet phap 4
Tứ Trọng Ân



Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là:

 

1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu:

 

     "Ơn cha như núi Thái sơn,

     Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

     Một lòng thờ mẹ kính cha,

     Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"

 

Bởi cha mẹ là người tốt nhất đối với ta trên đời, cho nên làm người trước hết là phải hiếu dưỡng cha mẹ. Tam giáo (Nho, Lão, Thích) đều xếp hạnh Hiếu đứng đầu trong muôn hạnh. Như trong kinh Phật có nói:

 

    "Không có điều thiện nào bằng hiếu thảo,

     Không có điều ác nào bằng bất hiếu"

 

và Nho giáo cũng nói: "Ngàn kinh muôn sách, hiếu nghĩa làm đầu".

 

Trong đạo Phật thì đức Phật là bậc tôn quí nhất trong ba cõi, nhưng Ngài dạy chúng ta coi "Cha Mẹ là vị thần tối thượng, cao cả nhất" và nói "Khi Phật chưa ra đời thì phụng thờ cha mẹ, tức là như phụng thờ Phật vậy". Ngài dạy tôn giả Mục-kiền-liên lập trai đàn để thỉnh chư tăng chú nguyện, cầu siêu cho thân mẫu - nên ngày nay chúng ta có đại lễ Vu-lan (rằm tháng Bảy âm lịch) và mùa Báo Hiếu.

 

Làm sao cho được tròn chữ hiếu? Hiếu hạnh thì rất nhiều nhưng có thể tóm lược trong những điều sau đây:

 

- Trước hết phải tỏ lòng thương, bằng cách nuôi dưỡng và chăm sóc cho cha mẹ được đầy đủ về sức khỏe và vật chất. Nhất là khi cha mẹ đã già yếu, không còn làm lụng hay tự chăm sóc được nữa, và phải trông cậy vào con.

 

- Luôn luôn cố gắng làm cha mẹ vui lòng bằng cách kính trọng, vâng lời và nói lời dịu ngọt. Dầu cho cha mẹ già có thể sanh tật lẫm cẫm, hoặc đối xử lầm lỗi hay bất công với mình - thì cũng phải ẩn nhẫn, không nên tức giận hay cãi lại, để sau đó khi có dịp thuận tiện mới giải bày. 

 

- Chăm lo vấn đề tinh thần và đạo đức cho cha mẹ. Nếu cha mẹ là Phật tử, thì mình siêng năng đưa cha mẹ đến chùa nghe pháp hay làm công quả, sớm hôm nhắc nhở cha mẹ tụng kinh niệm Phật, v.v...hay mình vì cha mẹ mà làm các việc phước đức như bố thí, phóng sanh, ấn tống kinh sách, v.v...Nếu cha mẹ chưa là Phật tử, thì cố gắng hướng dẫn cha mẹ về với Chánh pháp của Phật. Đây là cách báo hiếu tốt nhất.

 

- Lúc cha mẹ gần lâm chung, thì theo đúng Chánh pháp mà cung thỉnh chư Tăng Ni hay thiện tri thức đến khai thị, khuyên nhủ hay tụng kinh niệm Phật cho nghe. Phải hết sức cố gắng hỗ trợ để cha mẹ được chết an ổn và sanh về cõi lành. Trong lúc ma chay, không nên chìu theo thế tục mà sát sanh hại vật để đãi khách, làm cho cha mẹ phải chia tội.

 

- Sau khi cha mẹ đã khuất, thì phụng thờ hương khói và thường nhắc nhở con cháu về công ơn sinh thành. Thỉnh chư tăng, hay tự mình tụng kinh niệm Phật để cầu siêu cho cha mẹ, nhất là trong mùa Vu-lan báo hiếu. Cố gắng tu hành, lập công bồi đức và hồi hướng về cho ông bà, cha mẹ. Kinh có nói: "Một người đắc đạo, cha mẹ chín  đời đều được siêu thăng".

 

2) Ơn Tam Bảo: Đối với người Phật tử, Phật Pháp Tăng có công ơn rất lớn, sau cha mẹ. Phật Tổ đã vì chúng sanh mà bỏ vinh hoa phú quí và vợ đẹp con xinh, để đi tìm chân lý cứu khổ. Sáu năm khổ hạnh, nếm mật nằm gai, có lúc còn da bọc xương, suýt chết vì kiệt lực. Đến khi đắc đạo, Ngài không vội nhập Niết-bàn mà đã dũng cảm xuống núi, trong 45 năm lê gót khắp nơi, dạy vô số pháp môn để độ đủ hạng người. Ngài để lại chúng ta kho tàng Phật pháp, nhờ đó mà chúng ta mới có thể thoát được sanh tử luân hồi. Còn Tăng Ni là những vị tu hành đáng kính, đại diện cho Phật để dạy dỗ và hướng dẫn nếp sống tu hành của chúng ta.

 

Do đó người Phật tử phải báo đền ơn Tam Bảo bằng những phương cách sau đây:

 

- Kính thờ đức Phật, bậc đạo sư tôn quí nhất của ba cõi, đấng cha lành của tất cả chúng sinh. 

 

- Bảo vệ và phát triển Phật pháp bằng cách bảo tồn kinh điển, ấn tống kinh sách, ủng hộ tăng tài và xiển dương công cuộc truyền bá Giáo pháp cao quí của đức Phật đến mọi người.

 

- Cúng dường và bảo hộ chư Tăng Ni. Giúp xây thêm tự viện, chùa tháp, v.v...để phát triển đạo Phật.

 

- Noi theo gương sáng của Phật Tổ, nỗ lực tu hành để xứng đáng là con Phật. Như đức Phật đã nói: "Người nào làm tốt nhất giáo pháp của ta, là kẻ tôn kính ta hơn hết". Đây là cách đền ơn Tam Bảo tốt nhất.

 

3) Ơn Quốc Gia Dân Tộc: Chúng ta sống trong một quốc gia, nhờ có luật pháp bảo vệ, nhà trường giáo dục, bịnh viện chăm sóc, quân đội đánh giặc, v.v...- nên mới được sống an ổn và hạnh phúc. Do đó, ta nên tỏ lòng biết ơn quốc gia dân tộc, bằng cách làm người công dân tốt, đóng góp công sức làm cho nước giàu dân mạnh. Ủng hộ các công cuộc cứu trợ và từ thiện, để giúp xoa dịu đau khổ cho đồng bào. Khi đất nước bị ngoại xâm, trừ phi mình là Tăng không được phạm giới sát, phải tòng quân đánh giặc để bảo vệ đất nước và đồng bào. 

 

4) Ơn Chúng Sanh: Nói rộng ra, thì tất cả chúng sanh đều có ơn với chúng ta. Như hạt gạo ta ăn đây có thể là do công sức và mồ hôi của những người nông phu xứ Thái-lan. Viên thuốc ta uống, vật dụng ta xài, v.v...suy ra cũng là do công lao của bao nhiêu nhà bác học, kỹ sư, thợ thuyền, công nhân, v.v... trên khắp thế giới. Loài vật cũng có công ơn đối với chúng ta, như thịt chúng ta ăn, sữa chúng ta uống, trái cây chúng ta thưởng thức, v.v...cũng nhờ loài vật mà có. Vả lại trong vòng luân hồi vô tận, chúng sanh nào cũng có thể là cha mẹ hay quyến thuộc nhiều đời nhiều kiếp của ta, và do đó có ơn với chúng ta. Người Phật tử có thể báo đáp ơn chúng sanh, bằng những phương cách sau đây:

 

- Phát Bồ-đề tâm, nhứt quyết cố gắng làm việc giúp đời và nỗ lực tu hành để sớm thành Phật đạo, độ tận chúng sanh. Noi theo gương các vị Đại Bồ-tát của hạnh từ bi như đức Quán Thế Âm, đức Địa Tạng Vương, v.v...

 

- Theo đúng nguyên tắc bất hại và tinh thần từ bi, bình đẳng của đức Phật. Thương xót và đối xử bình đẳng với tất cả chúng sanh. Ủng hộ các công cuộc cứu trợ, từ thiện, vận động hoà bình, bảo vệ loài vật và sinh môi, v.v... trên thế giới.

 

- Giúp phát triển Đạo pháp, đem ánh sáng chân lý của đức Phật đến khắp nơi trên thế giới, để kiến tạo hạnh phúc và an lạc cho tất cả chúng sanh.

 

Báo đền Bốn Ơn Nặng, thật là rất khó. Ai làm được thì đáng gọi là bậc hiền nhân, Thánh thần cũng ngưỡng mộ, và người nầy còn cách Phật đạo chẳng xa.

 

 

Thích Phước Thiệt - Phật Học Từ Điển Việt Anh – 23/11/2018

(Xem thêm)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2021(Xem: 4018)
Tôi bắt đầu vào Đại học để học Do Thái giáo và Cơ Đốc giáo, trên đường theo học các lớp giáo lý sau này. Tại Đại học Ohio Hoa Kỳ, tôi tham gia lớp học về các tôn giáo thế giới từ tác giả, triết gia nổi tiếng, giáo sư triết học thâm niên tại Đại học Bang Ohio, Giáo sư Troy Organ, một Cơ Đốc nhân thực hành, người tự hào về việc giảng dạy mỗi tôn giáo từ quan điểm của một người tín ngưỡng.
17/11/2021(Xem: 26056)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 21926)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 13840)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 15446)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 15505)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 18137)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 17898)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 21775)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 14879)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]