Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hoằng pháp, đem giáo lý Đức Phật vào cuộc đời.

09/04/201317:32(Xem: 4304)
Hoằng pháp, đem giáo lý Đức Phật vào cuộc đời.


Hoằng Pháp Đem giáo lý Đức Phật vào cuộc đời

Thích Thiện Bảo
---o0o---

Truyền thông là là một trong những phương tiện biểu đạt tư tưởng thông tin đến cho mọi người, ngày nay nhân loại sử dụng nó như là một công cụ hửu hiệu nhất nhằm phục vụ trong tất cả các lảnh vực khác nhau trong đời sống. Có thể nói truyền thông ngày nay đả trở thành phương tiện ưu việt nhất, nó là phương tiện phục vụ đắclực cho con người trong việc chuyển tải thông tin đến cộng đồng xã hội. Ở Phật giáo Hoằng Pháp hay ngày nay gọi là truyền thông cũng có một vai trò hết sức quan trọng trong sứmệnh truyền bá giáo lý của Đức Bổn Sư điều nầy được thể hiệntừ khi Đức Thế tôn chuyển pháp luân lần đầu tiên tại vườn Lộc Uyển (Mrigada?ay là Sarnath) thuộc Vàranasi độ năm anh em Kiều Trần Như (Ajnàkaundinaya) . Sự kiện nầy được ghi trongKinh Chuyển Pháp Luân (Dharma-cakra pravartana: Pravartana: chuyển Dharma-cakra: bánh xe pháp). Ở đây Đức Phật đã trình bày hay bắt đầu quay bánh xe pháp; bánh xe pháp đã có sẳn rồi nhưng cần phải chuyển. Chúng ta có thể hiểu việc chuyển pháp luân như là một hành động nắm bánh xe xoay mạnh, khởi động để từ giây phút đó giáo Pháp của Đức Phật tạo thành một dòng chảy không ngừng từ thế hệ nầy sang thế hệ khác mà chúng ta thường gọi là ?Pháp luân thường chuyển? (bánh xe pháp luôn luôn chuyển động). Trong suốtqúa trình trên 2.500 năm từ khi Đức Phật thành đạo, Đạo Phật được lan tỏa khắp nơi trên thế giới như một sức sống mãnh liệt mà Đức đạo sư đã trao truyền lại. Khi Đức Phật đạt đến giác ngộ Ngài đã nhận rõ về sự vật hiện tượng xuất thế gian nhưng khi Ngài bắt đầu chuyển bánh xe Pháp thìĐức Phật bắt đầu phải dùng ý niệm và ngôntừđể chuẩn bị cho việc truyền đạt tư tưởng mà Ngài muốn nói. Điều này cho chúng ta một khái niệm,muốntruyền bá chánh Pháp của Phật việc trước tiên là ngôn ngữ và trình độ lý luận cần phải được trao dồi như một nhu cầu cần thiết không thể thiếu trong giai đoạn hiện nay.

uMỘT VÀI KHÁI NIỆM VỀ HOẰNG PHÁP:

1) Hoằng pháp: ?nghĩa là mở rộng ra làm cho giáo Pháp của Phật được lan toả khắp nơi? hay nóicách khácđemgiáo lý của Đức Phật đến với mọi người muốn tìm hiểu và ứng dụng lời Phật dạy để có một đời sống an lạc giải thoát giác ngộ . Hoằng Pháp không có nghĩa là chỉ là những buổi thuyết pháp trên pháp toà mà nó phải được thể hiện trong mọi sinh hoạt của con người qua nhiều phương tiện khác nhau: ngôn ngữ diễn đạt qua văn hóa nghệ thuật, in ấn kinh điển ....Làm sao cho giáo lý Đức Phật đi vào đời sống của con người, biến thành chất liệu sống như con người cần không khí để thở có như thế mới thực sự là một nền giáo lý có ích thiết thực góp phần đưa con người thoát khỏi mọi khổ đau.

2) Hoằng Pháp vi gia vụ(Hoằng pháp là việc nhà) : Tiêu chí trên lại càng khẳng định nhiệm vụ vô cùng bức thiếtđối với Hoằng pháp, từ xưa các vị tổ sư đã thấy được vai trò hết sức là quan trọng của hoằng pháp.No ?hông phải chỉ thuần là một việc làm có tính ?thời vụ?nhất thời mà phải có một kế sách lâu dài và nó phải gắn liền với đời sống của người con Phật dù xuất gia hay tại gia.

Đối với công tác Hoằng pháp hiện nay lại càng cực kỳ quan trọng vì ở một giai đoạn nền KHKT phát triển, việc chuyển tải giáo lý vào đời sống đòi hỏi người làm công tác Hoằng pháp phải nghĩ tới một phương thức truyền đạt thích hợp với thời đại vì ?Phật Pháp là bất định pháp?, chấp chặc nhưng khuôn xáo củ là tự mình làm cho mình lạc hậu, một người khôn ngoan không bao giờ biểu hiện điều đó trong hoạt động của mình.Phật giáo lại không có một khuôn mẫu nhất định nào mà tùy theo hoàn cảnh,điều kiện của xã hội mà giáo lý của Đức Phật có thể áp dụng khác nhau mà chúng ta gọi là ?Tùy duyên,bất biến và bất biến tuỳ duyên ?. Đây có thể nói là một nguyên lý đặc thù làm cho Đạo Phật có thể đến bất cức quốc gia nào mà không bị sự phản kháng của dân tộc khi Đạo Phật đặt chân lên quốc gia đó.

Thế giới ngày nay trong xu thế toàn cầu hoá nguyên lý trên lại càng tạo nên một sức mạnh trong việc truyền bá giáo lý đạo Phật đi vào cuộc đời.Nếu người Đông Phương xem đạo Phật như một tôn giáo thuần túy thì người Phương Tây xem đạo Phật như một nghệ thuật sống,một phương thức làm cho con người thăng bằng về tâm thức mà các nhà tâm lý học gọi là stress , nó giải quyết những bế tắc của đời sống dư thưà về vật chất nhưng hoàn toàn thiếu vắng về tinh thần. Đạo Phật đến như một phương thuốc làm cho con người chạy đua về vật chất dừng lại nhằm ổn định, cân bằng trong đời sống.

Tinh thần của Đạo Phật ?Chúng sanh đa bệnh Phật pháp đa phương?( Chúng sanh nhiều bệnh thì Phật pháp cũng có nhiều phương cách khác nhau để điều trị ); từđó chúng ta có thể thấy Hoằng pháp là một phương thức không theo lối mòn, giáo điều cố địnhvà Thiền sưQuảng Nghiêm bộc lộ trong bài thơ Hưu hướng Như Lai ?

... Nam Nhi tự hưũ xung thiên chí

Hưu hướng Như Lai hành xứ hành.

... Làm trai chí lớn tung trời thẩm

Sao dẫm chân theo chổ Phật thành.

( Hư Trúc dịch)

Đa phương thức Hoằng Pháplà cách thực hiện việc truyền bá giáo lý Đạo Phật không phải chỉ có Pháp toà trong giảng đường mà được thực hiện qua nhiều phương tiện khác nhau qua tinh thần nhị khế( khế lý và khế cơ). Làm sao truyền bá tinh thần giáo lý phù hợp với nền tảng cơ bản của Đạo Phật, không đi ngược lại với truyền thống mà Đức Phật đã dạy. Khi giảng cho mọi người chúng ta phải dùng ngôn ngữ diễn đạt và quán sát bối cảnh chung của đối tượngnơi ta đang giảng ,sau đó ta nghiệm xemgiáo lý nào phù hợp với hoàn cảnh hiện tại.Không nên đem một mớ kiến thức Phật học rồi thao thao bất tuyệt, không cần biết hoàn cảnh địa phương đóngười ta có chấp nhận hay không.Thuyết pháp như vậy, gọi là biểu diễn ngôn ngữ và phô trương kiến thức thực sự không khế lý.

Nhưng Pháp thoại mà ta trình bày phải được mọi người tiếp nhận qua ánh mắt cảm nhận của mọi người nghe, người giảng Pháp là người phải quán sát căn cơ đối tượng nào cần nói điều gì để có thể họ tiếp nhận dễ dàng như vậy gọi là khế cơ. Truyền bá giáo lý đạo Phật luôn luôn mang hai nội dung khế lý và khế cơ,nếu thiếu một trong hai yếu tố trên thì buổi giảng đó xem nhưkhông thành tựu.Ví như một vị Bác sĩ khi cho thuốc cần phải xem mạch bệnh nhân trước để có sự cáigọi là định bệnh. Dùng một đoạn kinh ra đọc cho mọi người nghe không bỏ xót một câu ,một chử đó không phải là giáo lý sống?hoạt ngữ?(ngôn ngữ sống) trái lại 荊chúng ta gọi là ?Tư۠Ngữ? (ngôn ngữ chết), vì nơi đó không đem đến cho người nghe niềm hỷ lạc, đó không phải là giáo lý của Đức Phật..Cho nên không phải bất cứ kiến thức nào của mình cũng có thể nói,có thể trình bày bất cứ nơi nào và bất cứ ở đâu(?).

uNGƯỜI TRUYỀN ĐẠT GIÁO LÝ ĐI VÀO CUỘC ĐỜI

Chúng ta biết rằng Phật giáo không phải la một lýthuyết xuông hay một nền triết học như bao nền triết học trên thế giới mà Phật học là một nền giáo lý thực nghiệm được thể hiện trong đời sống tâm linh nhằm giải quyết nhưng bế tắc của tâm thức con người, giúp con người vượt lên trên mọi chấp trước để chấm dứtkhổ đau. Chính vì tinh thần đó cho nên Thái Hư Đại Sư chia giáo lý ra làm hai:giáo lý ảnh tượng và giáo lý bản chất.

1/Giáo lý ảnh tượng: Những kinh điển của Phật dạy có tính cách kinh viện hay nói cách khác nền giáo lý đó được ghi bằng văn tự,nói bằng những ngôn ngữ của từng quốc gia.Nó được xem như một số kiến thức Phật học của một học giả không phải hành giả, đó là những nhà nghiên cứu, biết nhưng không ứng dụng thực hành. Qua đây mà giáo lý Đạo Phật nêu lên 3 nguyên tắc gọi là Tam học(Văn học,tư học và tu học).

-Người đệ tử Phật trước tiên phải nghe,tìm hiểu giáo điển, xây dựng cho mình một kiến thức Phật học với những phương pháp tu tập khi tiếp nhận giáo điểnvới một tinh thần, cởi mở ,thao thức muốn tìm hiểu để biết rỏ con đường mà mình sẽ đi và hướng dẫn người khác theo mình, gọi là Văn học (văn huệ) Điều đó được xác định qua tinh thần ?đến để mà thấy, chớ không phải đến để mà tin? .

- Sau khi nghe, nghiên cứu tìm hiểu, người học Phật phải có tư duy, quán sát những điều mình nghe, nghiên cứu tìm hiểu,dù điều đó được nghe qua lời dạy của Phật, các vị tổ sư hay các vị giảng sư nổi tiếng đương thời.Tất cả phải đượcsàn lọc của tư duy quán sát, nhằm thẩm xét giá trị đích thực trước khi ứng dụng vào đời sống. Ở mộ đọan kinh Đức Phật đã dạy: ?Đừng tin tưởng một điều gìvì văn phong.Đừng tin tưởng một điều gì vì vịn vào một tập quán lưu truyền.Đừng tin tưởng điều gìvì có được nhiều người nói đi nhắc lại.Đừng tin tưởng điều gì dù là bút tích của thánh nhân.Đừng tin tưởng điều gì dù thói quen từ lâu khiếnb ta nhận là điều ấy đúng. Đừng tin tưởng một điều gì do ta tưởng tượng ra lại nghĩ rằng một vị tối linh đã khai thị cho ta. Đừng tin tưởngbất cứ một điều gì chỉ vịn vào chỉ có một uy tín của các Thầy dạy các người.Nhưng chỉ tin tưởng những gi mà chính các người đã từng trải,kinh nghiệm và nhận la đúng,có lợi cho mình và kẻ khác.Chỉ có cái đó mới là mục đíchtối hậuthăng hoa cho con người và cuộc đời.Các người hãy lấy đó làm chuẩn mực?(Anguttara Nikaya).

Điều nêu trên của Đức Phậtcho chúng ta những người học Phật phải biết động nảo tư duy,không bị niềm tin mù quáng, nghe theo một cách vô điều kiện. Đó không phải là tinh thần Phật học và nó hoàn toàn không phù hợp với truyền thống giáo lý của Đạo Phật. Có tư duy quán chiếu như vậy gọi là tư học (tư huệ).

- Suy tư, quán sátnhận thấy đúng phù hợp với chính bản thân ,điều tối quan trọng là ứng dụng vào đời sống để có một nguồn Pháp lạc ,gọi là tu học(tu huệ).

2/Giáo lý bản chất: Đây là giáo lý của sự sống, nghe là hạt giống gieo vào đất,suy nghĩ, quán chiếu làtìm nơi chốn để gieo hạt giống đó và rồi người gieo hạt giống phải biết vô phân tưới nước cho hạt giống nẩy mầm: ?Mưa xuân nhẹ hạt, đất tẩm ướt ,hạt đậu năm xưa hé miệng cười?.Nghe mà không thực tập ứng dụng tu,chỉ là nói xuông.Điều nầy các vị Tổ sư thường gọi là Hạnh giải tương ưng hay Vương Dưong Minh (Trung Hoa) gọi là TRI HÀNH HỢP NHẤT( biết và làm phải đi đôi). Phật giáo không chấp nhận nói xuông tranh cải,đàm luận vô ích,điều nầy trong một đoạn kinh Đức Phật đựơc một Bà La môn chất vấn đức Phật: giáo lý của Ngài có Ngã hay không có Ngã.Đức Phật ngồi im lặng không trả lời,một lúc sau vị Bà La Môn đó ra về,Ngài A Nam cảm thấy thắc mắc bạch Phật: Bạch Đức Thế Tôn tại sao Phật không trả lời. Đức Phật nói: A Nan Ông ấy đến đây hỏi ta nhằm mục đích tìm học thuyết chống đối hoặ? ủng hộ,chớ không phải tìm pháp môn tu học.Nều ta nối không có ngã ông sẽ bị kẹt,mà nói có ngã ông cũng bị kẹt.Không trả lời mà ta im lặng là ta đã giúp cho Ông không bị kẹt trong hý luận xuông.

Như vậy, người truyền đạt giáo lý đức Phật phải là một hành giả mà không phải là học giả,vì qua thân, khầu, ý của người hành giả tương hợp với nhau tạo sức thuyết phục cho người nghe.Nói nhưng không làm là một trong những nguyên nhân làm giảm đi tinh thần học Phật đối với mọi người khi tiếp cận với nền giáo lý Đạo Phật. Qua hình ảnh của Đức Phật đêm thành đạo sau khi ngồi thiền định suốt đêm , khi sao mai bắt đầu mọc buổi bình minh sắp lố dạng tinh sương lúc đó cũng cảm nhận được nơi Ngài sự giác ngộ hoàn toàn và lời đầu tiên Đức Phật thốt ra: ?Tất cả mọi người đều có tuệ giác,vậy mà đời nầy sang đời khác,kiếp nầy sang kiếp khác,con người lại phải trôi lăn trong biển trầm luân khổ ải?. Câu nói đó phải chăng phát xuất nới sâu thẳm của tâm thức hiện lên điều đó lại càng chứng tỏ giáo lý đạo Phật là nền giáo lý nội quan.

---o0o---

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/12/2017(Xem: 15797)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
01/11/2017(Xem: 8926)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 21388)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
23/03/2017(Xem: 9958)
Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : Núi cao, thác ghềnh, quán cà phê, phòng làm việc, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa,
20/03/2017(Xem: 11037)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
20/03/2017(Xem: 7547)
Nhân dịp đức Phật về Thành Ca Tỳ La Vệ giáo hóa hay tin công chúa Da Du Đà La mới bảo con mình đến gặp Phật xin chia gia tài, Phật mới nói rằng ta bây giờ không còn nắm giữ tài sản thế gian, chỉ có tài sản của bậc Thánh, nếu con muốn ta sẽ chia cho con? La Hầu La nghe Phật nói liền chấp nhận và sau đó phát tâm xuất gia tu theo Phật. Các bạn biết gia tài tâm linh đó là gì không? Này các bạn, đức Phật của chúng ta trước khi đi tu vẫn có vợ có con, sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề thấu rõ mọi nguyên lý sai biệt như phải quấy, tốt xấu, nên hư, thành bại trong cuộc đời đều do chính mình tạo lấy, sau đó Phật mới trở về tiếp chúng độ sinh. Bảy thứ gia tài Thánh nếu chúng ta biết ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày, thì chúng ta sẽ giàu có và tràn đầy hạnh phúc, không một ai có thể cướp đi được. Đức Phật của chúng ta đã thừa hưởng gia tài đó, nên đã không còn luyến tiếc cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, và thần dân thiên hạ.
20/03/2017(Xem: 8615)
Sau khi nhịp đập của con tim bị ngừng lại và cùng lúc 5 giác quan của toàn thân con người không còn biết cảm giác, gọi là Chết. Nhưng thức A-lại-da bên trong vẫn còn hằng chuyển liên tục và hoạt động một mình. Sự hoạt động đơn phương của nó y như lúc con người còn sống đang ngủ say.Thức A-lại-da hoạt động một mình, không có 5 giác quan của cơ thể bên ngoài cộng tác
16/03/2017(Xem: 7698)
Trong bài “Sức Mạnh Của Tâm” kỳ trước có nói đến Tâm là chủ tể. Đích thực, con người trên đời này làm nên vô số việc tốt, xấu, học hành, nên danh, nên nghiệp, mưu sinh sống đời hạnh phúc, khổ đau, cho đến tu tập phật pháp được giác ngộ thành Phật, thành Thánh, Nhân bản, v.v…đều do tâm chỉ đạo (nhất thiết duy tâm tạo). Qua đây cho ta thấy rằng; tâm là con người thật của con người, (động vật có linh giác, giác hồn thật siêu việt hơn tất cả các loài hữu tình khác trên trái đất này). Phi tâm ra, bản thân con người, chỉ là một khối thịt bất động.
16/03/2017(Xem: 7950)
Trong nghi thức Cầu Siêu của Phật Giáo Việt Nam, ở phần Quy Y Linh, có ba lời pháp ngữ: “Hương linh quy y PHẬT, đấng PHƯỚC TRÍ VẸN TOÀN – Hương linh quy y PHÁP, đạo THOÁT LY THAM DỤC – Hương linh quy y TĂNG, bậc TU HÀNH CAO TỘT” (chơn tâm – vô ngã). Ba lời pháp ngữ trên chính là ba điều kiện, ba phương tiện siêu xuất, có năng lực đưa hương linh (thân trung ấm) được siêu lên các cõi thiện tùy theo mức độ thiện nghiệp nhiều,
11/03/2017(Xem: 8063)
Do vì đặc thù, cho nên bảy hạng đệ tử Phật (Tỳ kheo Tăng, Tỳ kheo Ni, Sa di, Sa di ni, Thích xoa Ma na, Ưu Bà Tắt, Ưu Bà Di) từ trong thời Phật còn tại thế và hôm nay, ai cũng phải có tâm từ bi là một quy luật ắt phải có sau khi quay về Đạo Phật (Quy y tam bảo) trở thành Phật tử xuất gia. Được có tâm từ bi, là phải học và thực tập Phật Pháp. Dù là những oanh vũ nam, oanh vũ nữ trong tập thể GĐPT, đều phải học đạo lý từ bi và thực tập từ bi, được thấy ở những câu: em thương người và vật, em kính mến cha, mẹ và thuận thảo với anh chi, em.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567