Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cải cách tâm trước hết

09/04/201316:15(Xem: 6685)
Cải cách tâm trước hết

chu-Tam

 

Trước hết, cho phép tôi với tư cách là một Phật tử có tuổi, hiện nay đang giảng dạy Phật học ở Học viện Phật giáo tại TP. Hồ Chí Minh, gởi lời nồng nhiệt chào mừng quý vị, tán thán những Phật sự mà quý vị đã và đang làm, vì tương lai của trẻ thơ, vì hạnh phúc của đồng bào nghèo.

Những việc làm của quý vị rất bình thường và thiết thực, và cũng chính vì lẽ bình thường và giản đị đó mà chúng có ý nghĩa rất lớn lao. Những việc làm này, ở đâu cũng làm được, miễn là chúng ta có một tấm lòng.

Vì sao đạo Phật đề cao chữ Tâm?

Đó là vì Tâm hay lòng là cái tinh yếu nhất, cốt lõi nhất trong con người và trong mọi hành động của con người. Ở các chùa Việt Nam, trong các khóa lễ sớm hay chiều, Tăng Ni Phật tử thường tụng một bài kinh ngắn gọi là Tâm kinh. Tâm kinh tuy chỉ có 120 chữ nhưng lại là tinh yếu, là cốt lõi của ba tạng kinh điển Phật giáo gồm có hàng nghìn quyển và hàng vạn lời. Cũng như vậy, hoạt động của con người tuy đa dạng nhiều màu nhiều vẻ, nhưng giá trị đích thực của chúng, nói cho cùng, cũng chỉ quy về một chữ Tâm mà thôi. Vì vậy mà thi hào Nguyễn Du, trong đoạn kết thúc Truyện Kiều, đã viết:

“Thiện căn bởi tại lòng ta

Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ tài”

Đúng như vậy, gốc của mọi điều thiện, tức thiện căn, chính là ở nơi lòng người, tâm người. Có tài không bằng có tâm, bởi vì như thi hào Nguyễn Du nói:

“Có tài mà cậy chi tài

Chữ tài liền với chữ tai một vần”

Chữ tài không những có giá trị chỉ bằng một phần ba chữ tâm, mà chữ tài lại thường kéo theo tai họa, nếu người có tài mà không có tâm tốt, không có lòng lành.

Chúng ta hãy nghĩ xem. Tham nhũng thường là những người có chức có quyền. Họ không phải là người bất tài. Nhưng vì thiếu cái tâm vì dân, vì nước, cho nên càng có tài, càng tham nhũng, càng đục khoét tợn. Thậm chí họ còn lý luận: Hy sinh đời bố, củng cố đời con. Họ không nhớ lời Bụt dạy: Tham thì thâm.

Bụt đã bảo thầm rằng chớ có tham. Thế là cái gì phải đến đã đến. Nhà lao Chí Hòa mở cửa đón họ, thậm chí súng của pháp trường kết liễu đời họ.

Đối với đạo Phật, tất cả những lời nói hay những cử chỉ gọi là đẹp, nếu không xuất phát từ tấm lòng thật sự thiện, thì chỉ là vô nghĩa, hay chỉ là giả dối kệch cỡm mà thôi. Vì vậy mà trong dân gian có câu: Của người Bồ tát, của mình lạt buộc.

Ý nói, đối với của cải người khác, của Nhà nước, của dân thì mình phung phí, xài lớn như vứt tiền qua cửa sổ, thế nhưng đối với đồng tiền của chính mình, hay của gia đình mình thì ky bo, tính toán chi li từng đồng xu. Ý nói đối với của người thì xử sự như là Bồ tát là theo nghĩa như vậy.

Chính như vậy mà tu theo đạo Phật, chủ yếu là tu tập cái tâm của mình khiến cho tâm trước đây nghĩ điều ác thì nay chỉ nghĩ điều thiện, điều lành mà thôi, mà cũng nhờ cái tâm suy nghĩ toàn điều thiện mà trước kia tâm bị mê mờ, thì nay tâm trở nên sáng suốt, cái tâm trước kia tán loạn, nay trở nên định tĩnh, thanh thản. Hạnh phúc đích thực của con người, chính là cái tâm bình tĩnh sáng suốt và thuần thiện đó.

Trong kinh Pháp Cú, một kinh nổi tiếng thuộc Phật giáo Nam tông, có hai bài kệ 42 và 43.

“Kẻ thù hại kẻ thù

Oan gia hại oan gia

Không bằng tâm hướng tà

Gây ác cho tự thân”

Ý tứ bài kệ nói: Cái tâm nghĩ ác, đem lại tai hại cho mình còn hơn là kẻ thù hại mình.

Trái lại, có những điều tốt lành mà cha mẹ, anh em, bà con muốn làm cho mình, thì chính cái tâm hướng thiện còn làm tốt hơn. Vì vậy, bài kệ 43 kinh Pháp Cú viết:

“Điều mẹ cha bà con

Không có thể làm được

Tâm hướng thiện làm được

Làm được tốt đẹp hơn”

Đức Phật từng ví thân tâm người thiện như cái cây, hút toàn những chất ngọt ở trong đất và thân tâm người ác như cái cây có bộ rễ hút toàn những chất đắng ở trong đất. Vì sao cảnh ngộ của người thiện thường là an vui, may mắn, tiếng lành đồn xa. Còn cảnh ngộ của người ác thì bức xúc và đầy lo âu, gặp chuyện bất hạnh, và tiếng dữ của người này cũng đồn xa, bạn bè và người thân đều lánh mặt! Lý do nói cho cùng cũng là do một bên thì tâm nghĩ toàn điều thiện, và một bên thì tâm nghĩ toàn chuyện ác.

Đó chính là bài học đầy minh triết của đạo Phật cũng như của nhiều đạo giáo khác. Đó cũng là bài học của cuộc sống. Cách đây vài ngày, đúng vào ngày 2 tháng 9, tôi có gặp lại ngài nguyên Cố vấn Phạm Văn Đồng, vốn là thủ trưởng của tôi ở Phủ Thủ tướng từ năm 1950 đến 1960, ngài Phạm Văn Đồng tuy đã 94 tuổi nhưng vẫn tráng kiện và minh mẫn. Ngài giơ tay ra và xăn áo lên để cho tôi nắn. Tuy tay tôi nắn rất mạnh, nhưng ngài vẫn không nhúc nhích. Đúng là ngài còn rất khỏe, không phải là thượng thọ mà là thượng thượng thọ. Ngài cười và nói: “Tôi khỏe như thế này cũng là nhờ ông Phật”.

Đối với đạo Phật, thì Phật tức là lòng. Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhà Phật học xuất sắc nhất đời Trần, và là thầy dạy của vua Trần Nhân Tông có làm bài ca với đầu đề “Phật tâm ca” và mở đầu với hai câu: “Phật tức Tâm, Tâm tức Phật..."

Nhà đại văn hào Nguyễn Trãi đời Hậu Lê cũng viết: “Bụt ấy là lòng, Bụt há cầu”.

Nếu lòng chúng ta, tâm chúng ta trong sáng, thanh thản, nghĩ toàn điều tốt lành, thì tâm chúng ta, lòng chúng ta tức là Phật rồi, không cần cầu ông Phật ở đâu xa. Khi ngài Phạm Văn Đồng nói nhờ ông Phật mà ngài có sức khỏe, có phải chăng ngài muốn nói về già, đến hơn 90 tuổi, tâm của ngài, lòng của ngài đã trở nên thanh thản, bình lặng, trong sáng, không còn mong cầu gì nữa, ngoài mong cầu cho đất nước yên bình, xã hội giàu mạnh và công bằng, nhân dân được hạnh phúc.

---o0o---


Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
12/11/2010(Xem: 16041)
Mất đi quê hương vào tuổi mười sáu và trở thành một người tỵ nạn vào tuổi hai mươi bốn, tôi đã đối diện với rất nhiều khó khăn suốt dòng đời. Khi quán chiếu lại, tôi thấy rất nhiều điều tưởng chừng không vượt qua nổi, chẳng những chỉ vì không thể tránh, lại còn không sao có được một giải pháp thuận lợi.
27/10/2010(Xem: 11528)
Phật vốn xem mình đồng đẳng như bao chúng sinh, do vậy ai theo Phật mà tôn người thành giáo chủ, xem như mắc tội vậy. Phật không bao giờ cho lời mình là khuôn vàng thước ngọc, mà đòi hỏi người nghe phải tự chứng những lời ấy, có vậy mới mong gỡ bỏ tham sân si mạn nghi tà kiến, mới mong minh tâm kiến tánh.
23/10/2010(Xem: 10385)
Trước hết, có lẽ tôi cần phải thú nhận là không có cách nào tôi có thể trình bày đầy đủ về thuyết Tiến Hóa. Lý do chính là: Tiến Hóa là một quy luật thiên nhiên trong vũ trụ, và trong gần 150 năm nay đã được kiểm chứng, phát triển, từ đó giải thích được nhiều điều trong vũ trụ, thiên nhiên. Ngày nay, thuyết Tiến Hóa bao trùm rất nhiều bộ môn khoa học. Do đó, không ai có thể tự cho là mình biết hết về thuyết Tiến Hóa. Một khó khăn khác tôi vấp phải khi viết về thuyết Tiến Hóa là những danh từ chuyên môn mà tôi không đủ khả năng để dịch ra tiếng Việt hoặc không biết là đã được dịch ra tiếng Việt. Vì những lý do trên, trong bài khảo luận này, tôi chỉ tự hạn trong chủ đề
20/10/2010(Xem: 5158)
Tích Lan (Sri Lanka) là một xứ sở Phật giáo lâu đời nhất, Phật giáo Theravada là một tôn giáo lớn tại đảo quốc này từ thế kỷ thứ hai trong triều đại vua Devanampiya-Tissa đã được vị tu sĩ Ngài Mahinda, con trai của vua Ashoka, bên Ấn Độ sang truyền giáo. Sau đó, Ni Sư Sanghamitta, con gái của vua Asoka, được biết rằng đã mang một nhánh cây Bồ Đề trích từ cây Bồ Đề nguyên thuỷ tại Bồ Đề Đạo Tràng và đã được trồng tại Anuradhapua. Bắt đầu từ đó cho đến ngày hôm nay, Phật giáo tại Tích Lan đã từng và vẫn còn một lòng kính trọng cây Bồ Đề mà ở dưới bóng cây đó Đức Phật đã Giác Ngộ. Những vị tu sĩ Tích Lan đã đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá đạo pháp cho cả hai tông phái Nguyên Thủy và Đại Thừa khắp suốt Đông Nam Á Châu. Tại Tích Lan, vào thế kỷ thứ nhất trước CN trong triều
19/10/2010(Xem: 3780)
Đạo Phật tự thân là đạo giác ngộ, hay nói cách khác là con đường dẫn đến cảnh giới thánh trí tự chứng viên mãn và siêu việt. Viên mãn vì thánh trí ấy phổ châu khắp ba thời mười phương, là căn thân của vạn pháp, không gì lớn hơn, không gì nhỏ bằng. Siêu việt vì thánh trí tự chứng ấy đã nhổ sạch gốc rễ của vô minh vốn là mầm mống của phiền não và đau khổ,
11/10/2010(Xem: 4625)
Chúng ta đã biết đến B. Russell như một trong những nhà sáng lập triết học phân tích. Tuy nhiên, ông không chỉ là một nhà triết học có nhiều tác phẩm, mà còn là người mang triết học đến với đại chúng và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực khác, như lôgíc học, tôn giáo và thần học, tâm lý học, ngôn ngữ học,… Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến quan điểm của ông về tôn giáo
22/09/2010(Xem: 6076)
Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
22/09/2010(Xem: 5847)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
10/09/2010(Xem: 50868)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
06/09/2010(Xem: 6094)
“Trước sự Nô Lệ của Con Người” là nhan đề chúng tôi dùng để gọi tập sách này, gồm những bài viết và những bài thảo luận quan trọng mà chúng tôi đã trình bày trong những hội nghị quốc tế và quốc nội. Những vấn đề đặt ra trong tập sách đều nhắm vào một trọng tâm độc nhất: tìm lại con đường của văn hoá Việt Nam trước sự nô lệ của con người để khai quan một chân trời cho ý thức tự do của nhân tính
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567