- 01. Sự canh tân của Phật giáo từ Đông sang Tây
- 02. Lotus HOA SEN
- 03. Khái Niệm về "Thể Dạng Trung Gian" Giữa Cái Chết và Sự Sinh Trong Phật Giáo
- 04. Khái niệm về "Tám mối lo toan thế tục" trong Phật giáo
- 05. Kiến tạo lại tượng Phật khổng lồ ở Bamyan (A-Phú-Hãn)
- 06. Sự hy sinh và hạnh phúc gia đình
- 07. Phật Giáo: Tôn Giáo, Triết Học, Luân Lý hay Khoa Học?
- 08. Nguồn Gốc và Ý Nghĩa Của Lá Cờ Phật Giáo
- 09. Làm Thế Nào Để Giúp Đỡ Người Hấp Hối
- 10. Dứt khoát với chữ "Tiểu Thừa"
- 11. Câu Trả Lời Đã Có Sẵn Trong Câu Hỏi
- 12. Chuẩn Bị Như Thế Nào Cho Cái Chết Của Mình
- 13. Lạm Bàn Về Khái Niệm "Khổ Đau" Trong Phật Giáo
- 14. Ý Nghĩa Của Việc Ăn Chay Trong Phật Giáo
- 15. Phật Giáo và Vấn Đề Tính Dục
TRONG THẾ GIỚI TÂN TIẾN NGÀY NAY
Hoang Phong biên soạn và chuyển ngữ
(ấn bản thứ hai)
Philippe Cornu
Hoang Phong chuyển ngữ
Lời giới thiệu của ngườidịch
Tạp chí Le Point của Pháp vừa phát hành một số đặc biệt tháng 11 và 12,năm 2010, đưa ra chủ đề TÍNH DỤC VÀ CÁC TÔN GIÁO, quy tụ một số học giả lỗi lạccủa Pháp trình bày quan điểm của các tôn giáo lớn như Thiên chúa giáo, Do tháigiáo, Hồi giáo, Ấn giáo, Phật giáo, Lão giáo, Khổng giáo... về vấn đề này. Phầntrình bày về quan điểm của Phật giáo do một học giả Phật giáo lỗi lạc làPhilippe Cornu đảm trách, ông là Giảng sư và đương kim Viện trưởng Viện Đại họcPhật giáo Âu châu. Có tất cả bốn bài viết của ông : bài thứ nhất trình bày quanđiểm chung của Phật giáo và 3 bài trình bày quan điểm của ba thừa Phật giáo là Nguyênthủy, Đại thừa và Tan-tra thừa. Ngoài ra một số đoản văn tiêu biểu trích từkinh sách cũng được trình bày thêm giúp người đọc tìm hiểu chi tiết hơn nhữnggì được nêu lên trong các bài viết. Người dịch cũng mạn phép đưa ra một vài lờigóp ý thay cho phần kết luận.
Tranh của Michael Angelo, toà thánh Vatican, La-mã
Phật giáo nhìn tính dục dướikhía cạnh của sự thèm khát và đau đớn : đó là một mối hiểm nguy xô đẩy con ngườivào cảnh đọa đày của dục vọng và khổ đau.
Phía sau thân xác và giới tính
là sự thèm khát...
Phippe Cornu
Hoang Phong chuyển ngữ
Phật giáo không áp đặt một quyluật nào cho xã hội con người, không hề làm luật cũng không thiết đặt một nềnluân lý mang tính cách tập thể nào cả. Phật giáo hướng vào cá nhân con người, khuyêncon người nên chọn cho mình cách sống như thế nào và cách tu tập ra sao để diệttrừ khổ đau và tự giải thoát khỏi những trói buộc của sự hiện hữu. Vì thế nhữnglời giáo huấn của Đức Phật (thế kỷ thứ V trước Giê-su) có nói đến tính dục, đấylà những lời khuyên bảo mang tính cách cá nhân, tuyệt nhiên không phải những phánlệnh áp đặt cho toàn thể xã hội con người.
Theo giáo lý của Phậtgiáo cổ truyền (nguyên thủy), tính dục cũng như tất cả những gì liên hệ đến thânxác và lạc thú phát sinh từ giác cảm đều được nhìn dưới khía cạnh của sự thèmkhát và bám víu phát sinh từ sự ham muốn, khổ đau sẽ phát sinh từ những thứ xúccảm ấy không tránh khỏi được. Tính dục thường được nêu lên như là một mối nguyhiểm hoặc như mặt đất trơn trợt xô con người rơi vào sự đày đọa của dục vọng vàkhổ đau.
Quyluật vô thường
Đức Phật nêu lên khái niệm về Bốn Sự thật Cao quý (Tứ DiệuĐế) làm nền tảng cho giáo lý của Ngài, giáo lý đó nhấn mạnh trước hết đến bản chấtcủa khổ đau bàng bạc khắp nơi và không thể nào tránh khỏi (sự thật thứ nhất).Sau đó Ngài giải thích nguồn gốc làm phát sinh ra khổ đau (sự thật thứ hai), đấylà sự thèm khát, trong đó có sự ham muốn quá độ các lạc thú tính dục, mong muốntìm được mãi những lạc thú ấy, kể cả sự ham muốn tìm thấy sự hủy-diệt và sựphi-hiện-hữu [tức mong muốn loại bỏ những gì mìnhkhông thích và những gì tệ hại có thể xảy ra]. Tại sao Phật giáo lại kếtán sự thèm khát ? Vì Phật giáo xem đó là sản phẩm của vô minh - có nghĩa làkhông hiểu mình và bản chất của sự hiện hữu của chính mình là gì. Tác động củavô minh mang lại một thứ cảm tính về một "cái ngã" tự tại, cảm tínhđó được củng cố vững chắc thêm dựa vào các kỷ niệm, thói quen, những thứ tình cảmquen thuộc thường xảy ra trong tâm thức và nhất là sự bám víu vào thân xác củamình. Thế nhưng tất cả những thứ ấy thật phù du, vì thế để cưỡng lại sự phù du ấyta càng tìm cách củng cố thêm cảm tính về "cái tôi" trường tồn bằng cáchgia tăng thêm các cảm nhận lạc thú và luôn phóng nhìn vào tương lai. Tiếc thay cáchkéo dài và bảo vệ "cái tôi" ấy chỉ hoài công, bởi vì không thể nàotránh né được quy luật của vô thường. Già nua, bệnh tật và cái chết cho thấy vôthường lúc nào cũng hiển nhiên ra đó.
Tính dục liên hệ trực tiếp đến sự cảm nhận của thân xác.Thế nhưng thân xác lại là sản phẩm phát sinh từ nghiệptrong quá khứ, tứclà hậu quả phát sinh từ các hành động của mình từ trước. Thân xác thường được vínhư một cỗ xe quý giá, một phương tiện đưa đến giác ngộ, thế nhưng thân xác cũngđược mô tả như một gánh nặng hay nguyên nhân làm phát sinh dâm dục và mọi thứ lolắng khác, cản trở đời sống tâm linh của chính mình. Vậy hai cách hình dung ấy cómâu thuẫn với nhau hay không ? Hoàn toàn không ! Bởi vì mọi khó khăn đều phát sinhtừ sự bám víu do chính mình tạo ra cho thân xác nhưng tuyệt nhiên không phảithân xác tự tạo ra những khó khăn ấy cho nó. Thân xác nhờ có ngũ giác nhận biếtđược sự tiếp xúc phát sinh từ sự cảm nhận, dù đấy là sự cảm nhận thích thú, khóchịu hay trung hòa, vì thế tự nó thân xác chỉ đơn giản là một cửa ngõ tiếp nhậncác thứ giác cảm. Trong số đó giác cảm tính dục là một trong những thứ giác cảmthích thú nhất mà thân xác có thể mang lại cho ta. Sự kiện cảm nhận thích thúkhông có gì tệ hại cả..., nếu như sự cảm nhận ấy không gây ra bám víu và thèmkhát quá đáng : tức muốn được thích thú nhiều hơn nữa. Vì thế mọi thứ khó khănxảy ra là do phản ứngcủa ta đối vớisự thích thú, nhưng tuyệt nhiên không phải do chính sự thích thú, tóm lại sự thèm khátthích thú và muốn tiếp tục được cảm nhậnsự thích thúmới chính là nguyên nhân của khổ đau. Sự thèm khát và ham muốn đó làm phát sinhmột loạt đủ mọi thứ dục vọng - chiếm giữ, ghen tuông , tức giận, oán hờn -chúng thay nhau hành hạ ta và khiến ta bị mù quáng. Đấy là các thứ dục vọng gâyra tội lỗi. Thế nhưng tội lỗi phát sinh từ đâu ? Từ trong tâm thức của chính mình.
Điểm then chốt trong giáo lý Phật giáo là thân xác gánh chịusự kiểm soát của tâm thức. Thân xác và lạc thú tính dục không giữ một vai tròchủ động nào cả. Chính sự bám víu của tâm thức là nguyên nhân làm bùng lên đủ mọithứ dục vọng, và dục vọng là nguyên nhân của khổ đau. Sự thèm khát là động cơchủ yếu tạo ra các phản ứng trong tâm thức. Dù cho chữ "ham muốn" (thèm khát, khát vọng, ướcmong : désir - desire) trong ngôn ngữ Tây phương phản ảnh khá trung thực ýnghĩa của chữ Phạn "râga", thếnhưng cũng cần phải hiểu đối với Phật giáo chữ "râga" (ham muốn, thèm khát) không hề mang sắc thái tích cực nhưtrường hợp của chữ "ham muốn" (désir - desire ) trong ngôn ngữ Tâyphương. Kinh sách định nghĩa chữ "râga"như sau : " Đấy là sự ham-muốn-bám-víu,có nghĩa vừa là sự bám-víucực mạnh vàosự hiện hữu và các vật thể chiếm hữu khác vừa là sự thèm-muốndo tất cả các thứ ấy tạo ra. Tác động của nó làm phátsinh mọi thứ khổ đau". Cách định nghĩa trên đây cho thấy tính cách cảnhgiác khía cạnh tiêu cực trong ý nghĩa của chữ ham-muốn. Thế nhưng trong tư tưởngTây phương, ham-muốn (désir - desire) được hiểu như một trạng thái căng thẳngthúc đẩy con người hành động, trạng thái ấy trên một khía cạnh nào đó có thểmang lại sự sáng tạo và những phẩm tính thượng thặng, chẳng hạn như sự "mong-muốn của Trời" hay của người nghệsĩ khi sáng tạo, nhưng đồng thời ham-muốn(désir - desire) cũng có nghĩa là một động lực xô ta vào khổ đau của dục vọng.Vì thế ý nghĩa của chữ ham-muốntrongngôn ngữ Tây phương không được minh bạch, thí dụ như "ham muốn tình yêu" có thể hiểu như một sự khích lệ, dù rằng hậuquả do sự ham-muốnđó mang lại lắmkhi chỉ là sự tàn phá. Giáo lý Phật giáo luôn chú trọng đến phương pháp phân tíchvà cho rằng ham-muốn-bám-víuchỉ là mộtthứ nọc độc của tâm thức, tuy nhiên Phật giáo rất cẩn thận và cũng nghĩ đến mộttrường hợp khác là ham-muốn-khát-vọng tức là một yếu tố tâm thần tương tợ với ý nghĩa ham-muốn-thúc-đẩycủa người Tây phương.
Tính dục tự nó không có gì để chê trách, chính tâm thức mớilà những gì phải lên án khi nó bị lạc thú làm mù quáng và biến nó thành một mảnhđất thuận lợi giúp các thứ nọc độc tâm thần phát sinh. Tính dục là một thể dạngtrao đổi giữa hai con người mang lại cơ hội thuận lợi giúp cho họ đón nhận nhau,chỉ khi nào có sự chiếm hữu, thèm khát quá đáng và ham muốn thỏa mãn xen vào thìkhi đó tính dục mới trở thành ích kỷ và làm phát sinh ra khổ đau. Đấy là thông điệpchính yếu của Phật giáo. Phật giáo không quan tâm đến việc nối dõi tông đường hayhôn phối vì đấy chỉ là các thể dạng trói buộc trong cuộc sống, các mối tương giaogiữa con người và sự khống chế của sinh lý.
Dưới nhãn quan Phật giáo, hôn nhân không mang tính cáchthiêng liêng, không cần đến các lễ nghi ban phép lành. Giáo lý nhà Phật chỉ đòihỏi phải có sự tương kính, hy sinh cho nhau và tránh mọi hung bạo. Phật giáo khônghề xem thân xác và thế giới này là những gì xấu xa, Đức Phật chủ trương con đườngtrung đạo bác bỏ mọi hình thức khổ hạnh và hành xác có nghĩa là giữ đúng vị thếgiữa hai thái cực, một bên là đời sống thế tục một bên là sự khắc nghiệt của khổhạnh, sự khắc nghiệt ấy chỉ đày đọa thêm cho thân xác nhưng không mang lại một sựgiải thoát nào. Ý thức được bổn phận của mình tức là cách giữ gìn đạo đức tínhdục, hôn nhân không phải là một sự chiếm đoạt. Đối với những người chưa thấutriệt đạo lý, đời sống tính dục sẽ biến thành động cơ chính yếu thúc đẩy sự vậnhành của khổ đau trong chu kỳ hiện hữu (thế giới ta-bà), đấy là điều mà Phật giáochủ trương phải ra thoát. Dựa trên quan điểm đó người Phật giáo tại gia phải biếtkính trọng mình và người khác và người tu hành khi đã xa lánh cuộc sống thế tụcphải tuyệt đối tránh các hành vi tính dục. Thế nhưng Phật giáo Đại thừa có vẻ cởimở hơn so với sự khắt khe của Phật giáo Nguyên thủy (Nam tông). Trong học pháiTan-tra thừa tính dục được chuyển thành một hình thức tập luyện Du-già và được xemnhư một phương pháp mang lại Giác ngộ. Nói chung Phật giáo giữ một thái độ rấtphóng khoáng đối với vấn đề tính dục.
Con đường xa lìa thế tục
Philippe Cornu
Hoang Phong chuyển ngữ
Vai trò của Phật giáo đối với vấnđề tính dục tùy thuộc bối cảnh và trình độ hiểu biết Đạo Pháp của người Phật tử.Kỷ cương giới luật ghi chép trong kinh sách được xem như trực tiếp xuất phát từnhững lời giáo huấn của Đức Phật, do đó thường được áp dụng chung cho tất cả cáctông phái trừ một vài ngoại lệ đối với Phật giáo Nhật bản. Tại quốc gia này sựgiữ gìn giới luật quy định cho người xuất gia không mấy khi được tôn trọng và ngàynay một số nhà sư có gia đình, họ vừa là người xuất gia vừa là học giả. Trong Luật Tạng(Vinaya) có một phân đoạn mang tên là Pratimoksha(Lời nguyện giảithoát mang tính cách cá nhân) trình bày chi tiết các giới luật quy định chungcho cư sĩ, cho các sa-di, các tỳ-kheo, cả nam lẫn nữ. Phật tử tại gia có thể nguyệngiữ năm giới luật, trong số này có ba giới luật liên quan đến thân xác : khôngtước đoạt sự sống, không tự ý chiếm giữ những gì không phải của mình, không thựcthi những hành động tính dục thiếu hạnh kiểm, nguyên văn giới luật thứ ba nhưsau : "tôi nguyện giữ giới không thựcthi hành vi sai lầm về lạc thú tính dục".
Kính trọng mình và ngườikhác
Bất cứ ai trong xã hội cũng không bị bắt buộc phải tuânthủ giới luật trên đây, thế nhưng khi đã nguyện giữ giới thì phải giữ một cáchnghiêm chỉnh : hành động giữ giới mang tính cách cá nhân, một sự tự nguyện. Phậtgiáo không nêu lên một tác phong tính dục chính xác nào để cấm đoán, nếu có thìđấy là những hành vi sai trái mang lại khổ đau cho người khác. Tại Á châu, giớiluật liên quan đến tính dục được mô tả rõ ràng hơn các nơi khác, chẳng hạn như sựrăn cấm ngoại tình, dầu sao đấy cũng chỉ là cách giới hạn bớt tính cách quá rộngrãi của giới luật về tính dục vì giới luật này chỉ răn dạy sự kính trọng chínhmình và người khác. Giới luật đó không hề ám chỉ sự đồng tính luyến ái, thật vậyđồng tính luyến ái được chấp nhận khá dễ dàng tại các quốc gia Đông nam Á.
Thế nhưng các hành động tính dục bị cấm đoán triệt để nơichùa chiền, sự cấm đoán đó được quy định tùy thuộc vào hai giai đoạn tu tập : giaiđoạn sa-di và giai đoạn tỳ-kheo đã thụ phong. Người sa-di cả nam lẫn nữ phải tuânthủ mười giới luật, trong số này có giới luật bắt buộc phải giữ gìn sự trong trắng("đoạn dục" - tứckhông được thực thi các hành động dâm dục, tính dục hay dâm ô). Người xuất giasau khi được thụ phong sẽ chính thức được xem như người đã "từ bỏ đời sốnggia đình", người ta còn gọi họ là những người tỳ-kheo (bhikkhu) hay tỳ-kheo-ni (bhikkhuni) tức là các nam hay nữ tu sĩ,họ phải chọn một lối sống đơn giản và đạm bạc. Đó là con đường quyết tâm xa lìathế tục, trên con đường đó người tu hành phải loại bỏ mọi hành vi tiêu cực và chọncho mình một thể dạng tâm thức đạo hạnh, tập trung nghị lực vào việc tu học vàthực thi Đạo Pháp (Dharma - còn gọi là Con Đường). Sự đoạn dục hoàn toàn làmột trong bốn giới luật căn bản mà họ phải tuân thủ, nếu vi phạm vào đấy sẽ bịkhai trừ tức khắc và vĩnh viễn khỏi tập thể tăng đoàn. Tuy nhiên cũng có những giớiluật kém triệt để hơn, chẳng hạn trong số này có mười ba giới cấm nghiêm trọng,nếu phạm vào đấy sẽ bị khai trừ khỏi tăng đoàn nhưng chỉ tạm thời. Trong số mườiba giới cấm ấy có sự thủ dâm, cố ý phóng uế tinh dịch, đụng chạm thân xác hay sờmó phụ nữ, nói những lời lẳng lơ hoặc hàm ý dâm dục, xúi dục người phụ nữ bán dâmhay đứng ra làm mối lái. Tuy nhiên, sự ô nhiễm ban đêm xảy ra lúc đang ngủ khôngphải là một hành động lỗi lầm.
Một người tu hành nếu có những ý tưởng thèm muốn phụ nữphải tức khắc thiền định về sự kinh tởm của thân xác (xem thêm các đoản văn tríchdẫn trong phần đọc thêm). Nếu không kiềm chế được sự ham muốn phải xin hoãn lạicác lời nguyện và hoàn tục trước khi xảy ra tình trạng không hàn gắn được [tức là bị khai trừ vĩnh viễn], xử sự như thế sẽ khôngcó ai chê trách. Ngược lại, [trong chốn chùa chiền]nếu người tu hành không khắc phục được sự cám dỗ sẽ bị khai trừ ngay khỏi tăng đoànđúng theo sự quy định của giới luật. Đối với người nữ tu giới luật cũng tương tợnhư thế không có nhiều khác biệt, tuy nhiên trong trường hợp một người nữ tu bịhãm hiếp tức ngoài sự ưng thuận của mình và không hề phát lộ sự thích thú, thìđấy không phải là một sự vi phạm quan trọng và có thể tha thứ.
Mặc dù Phật giáo Nguyên thủy chủ trương sự cấm đoán khắtkhe về tính dục, thế nhưng đời sống xã hội trong các quốc gia Đông nam Á theoPhật giáo Theravada (Nguyên thủy) lại không quá khắc nghiệt nếu các tác phong tínhdục không mang tính cách hung bạo và ngoại tình gây ra khổ đau cho người khác,(Philippe Cornu).
Các đoản văn đọc thêm
Sự xa lánh thế tục của vị Bồ-táttrước khi thành Phật
Trong khi nghe các nhạc công đàn hát để giải khuây, ngườiBồ-tát [tức là Đức Phật tương lai] ngủ thiếp đi.Cả đoàn hát cũng mệt lả và lăn ra ngủ. Bỗng nhiên người Bồ-tát giật mình thứcgiấc nhìn thấy các nữ nhạc công vẫn còn đấy, họ tựa người vào nhau, quần áo xôlệch để lộ những thân hình tương tợ như những bức tượng gỗ, nước mũi thò lò,hai mắt sưng lên như đang khóc, nước dãi lòng thòng chảy ra từ miệng, đàn và sáovung vãi trên mặt đất. Người Bồ-tát bàng hoàng nhìn thấy toàn thể cung điện chẳngkhác gì một nấm mồ và thốt lên ba lần : "Bất hạnh thay ! Bất hạnh thay! Taphải rời bỏ chốn này ! Trước đây ta vẫn quyến luyến với cung điện nơi vua cha củata đang trú ngụ, thế nhưng hôm nay nó lại hiện ra với ta như thế này đây!".Người Bồ-tát cảm thấy kinh tởm và thốt lên : "Bất hạnh thay !", và từđáy sâu thẳm của lòng người Bồ-tát hiển hiện lên niềm khát vọng được từ bỏ tấtcả.
TríchtrongLuật Tạng của học phái Mahisasaka (một học phái Phật giáo xưa, thành lập vào thế kỷ thứ II trướcTây lịch)do André BAREAUtrích dẫn trong quyển En Suivant Bouddha(Theo vết chân Phật), NXB Philippe Le Beau, 2000.
Suy tư về tính cách ghê tởm củathân xác
Thây ma thật ghê tởm : thân xác của người sống cũng chẳnghơn gì ! Người du-già nên xem thân xác là những gì kinh khiếp và phải luôn nhớđến điều ấy. Có ba mươi hai thứ ghê tởm thuộc màu sắc, hình tướng, mùi hôi, vịtrí và sự phân bố [các đối tượng nhận biết của giác cảm].Vật chất đào thải từ thân xác thật ghê tởm và nhơ nhớp. Các thành phần chống đỡthân xác cũng thế. Giống như một con giòi sinh ra từ một đống uế tạp, thân xácđược hình thành từ sự dơ bẩn. Bên trong thân xác chất chứa những thứ ô uế tươngtợ như một hố phân. Chất ô uế thấm ra ngoài giống như dầu thấm qua một cái bìnhbằng đất. Thân xác là một ổ sâu bọ, không khác gì một đống rác. Thân xác giốngnhư một mụt nhọt, một căn bệnh hay một vết lở loét không chữa lành được, ghê tởmvà bạc nhược chẳng khác gì một xác chết.
ASUBHANUPASSANA[phép Quán bất tịnh : một phép tu tập của Phật giáo cổtruyền (nguyên thủy) hướng vào sự suy tư về 32 thành phần ô tạp của thân xác]do Philippe Cornu trích dẫn và dịch từ bản gốc.
Một vài giới luật về tính dụcdành cho người xuất gia
Parajika thứ nhất[kinh sáchtiếng Hán dịch chữ Parajika là Đại giới có nghĩa là các giới cấm quan trọng nhất]: Không được giao hợp tính dục.
Nếu một tỳ-kheo đưa cơ quan sinh dục của mình vào một cơquan sinh dục, vào hậu môn hay vào miệng của một người khác dù là đàn ông hay đànbà, hoặc đưa cơ quan sinh dục [của người khác]vào miệng mình hay hậu môn của mình, [hoặc đưa cơ quansinh dục của mình vào cơ quan sinh dục, hậu môn hay miệng] của một con thúhay một thây ma, dù chỉ sâu bằng chiều dài của một hạt mè, người tỳ-kheo ấy sẽmất hết cương vị của người tu hành.
Dù cho người tỳ-kheo quấn cơ quan sinh dục của mình bằngbăng vải, trong một cái bao, ăn mặc theo người thế tục, hoặc trần truồng, dù khôngcảm nhận một sự thích thú nào, cũng đều mất hết cương vị của người tu hành.
Mười trường hợp sau đây không phạm tội trọng đại : khingười tỳ-kheo đang ngủ và hoàn toàn không ý thức là mình đang giao hợp khi chuyệnđó xảy ra ; khi mình không đồng lõa ; khi mình bị bất tỉnh hay điên rồ ; trongtrường hợp bị ma quỷ ám ảnh và không chủ động được mình [...] ; hoặc trước khithệ nguyện giữ giới có phạm vào các hành động ấy.
Sanghadisesa thứ nhất[Sanghadisesalà các lỗi lầm phải đưa ra trước hội đồng tăng đoàn để xét xử và bị tạm thờikhai trừ] : Không được cố tình phóng thải tinh dịch.
Nếu người tỳ-kheo thủ dâm hay nhờ người khác thủ dâm đểphóng thải tinh dịch, phải đưa ra hội đồng tăng đoàn. Người tỳ kheo không được cốtình trân quý cơ quan sinh dục của mình, không được sử dụng nó như một công cụ,hoặc để lòng thòng. Nếu phóng thải tinh dịch dù thật vô nghĩa chỉ đủ cho con ruồiuống một ngụm [...] cũng phạm vào lỗi lầm sanghadisesa.
Thế nhưng, xuất tinh khi đang ngủ và đang nằm mơ, không cólỗi lầm gì. Nếu trong khi đại tiện tinh dịch són ra ngoài ý muốn của mình, khôngcó lỗi lầm gì. Khi giữ vệ sinh cơ quan sinh dục hoặc khi bôi thuốc, một chúttinh dịch nhỉ ra và mình không cảm nhận sự thích thú, không có lỗi lầm gì.
Sanghadisesa thứ tư: Không được đề nghị làm tình với mộtngười phụ nữ.
Nếu người tu hành nghĩ đến dâm dục và đề nghị với một ngườiđàn bà một cách sỗ sàng hành động giao cấu - với mình hay với một người khác - sẽbị đưa ra hội đồng tăng đoàn. Nếu người tu hành nói với một phụ nữ là các cô gáinào muốn tái sinh trong các điều kiện thuận lợi phải hiến thân cho mình sẽ phạmvào lỗi lầm sanghadisesa thứ tư.
(TẬP SÁCHGIÁO KHOA CỦA NGƯỜI TỲ-KHEO), Ven. DHAMMA SAMI, 2002,
Philippe Cornu dịch từbản gốc tiếng Anh.
Vị thế của Đại thừa
giữa sự khắt khe và các hành vi phạm giới
Philippe Cornu
Hoang Phong chuyển ngữ
Các giới luật nêu lên trong Phậtgiáo Nguyên thủy vẫn tiếp tục được các tông phái Đại thừa tôn trọng. Người xuấtgia phải tuân thủ giới luật ghi chép trong Luậttạng(Vinaya) và người Phật tử thếtục phải noi theo năm giới luật. Thế nhưng đối với người bồ-tát (boddhisattva)tức là một "sinh linhGiác ngộ" hành động trong tinh thần từ bi vì lợi ích của người khác [người bồ-tát là một khái niệm đặc thù của Phật giáo Đại thừa],nền đạo đức dành cho họ vượt lên trên khuôn khổ quy định cho người xuất gia nơichùa chiền [tức là các giới luật quy định bởi Phật giáoNguyên thủy], và nền đạo đức đó cũng được áp dụng cho người Phật tử tạigia. Kỷ cương đạo đức đó liên hệ mật thiết đến động cơ thúc đẩy từ bên tronghành động hơn là được áp đặt từ bên ngoài, vì thế nó mang tính cách phóngkhoáng hơn tuy rằng vẫn được quy định bởi một số quy tắc rõ rệt nào đó. Tính cáchphóng khoáng của giới luật trong một số trường hợp có thể giúp người bồ-tát hànhđộng hữu hiệu hơn vì lợi ích của chúng sinh. Vì thế các quy tắc của Luật Tạng(Vinaya) cũng trở nên rộng rãi hơn đối với họ.
Tánh không của tính dục
Nói chung thì các điều khoản liên quan đến tính dục quy địnhcho người xuất gia được trước tác và ghi chép trong kinh sách Đại thừa đều nhấtthiết dựa vào Luật Tạng[của Phật giáo Nguyên thủy] tiếp tục tôn trọng lý tưởngcao đẹp của lối sống xa rời thế tục. Thánh thiên (Shantideva) trong tập Nhập bồ đề hành luận(Bodhicaryavatara) bài bác quyết liệt thểdạng quyến rũ trên thân xác người phụ nữ, ông so sánh thân xác người phụ nữ vớimột cái bọc chất chứa những thứ nhơ nhớp và uế tạp (đối với một nữ tu sĩ thì thânxác của một người đàn ông cũng thế).
Đạo đức dành riêngcho người bồ-tát mang tính cách phóng khoáng và tự do tuy vẫn quy định bởi mộtsố quy tắc rõ rệt, sự tự do đó đôi khi cần đến trong một số trường hợp nào đóđể mang lại lợi ích cho chúng sinh. |
Tại Trung quốc, trong tập kinh Lưới Trời Bhrama[tức là kinh Bhramajalasutra - Kinh Phạm võng]có ghi chép giới luật bắt buộc người bồ-tát phải đoạn dục, thế nhưng nếu vi phạmsẽ không bị khai trừ khỏi tăng đoàn mà chỉ cần thú nhận và hối cải thành thực. Kinh về sự Tự do Siêu việt[tức kinhVimalakirtidesasutra- Duy-ma-cật sở thuyết kinh] củaDuy-ma-cật kể chuyện một vị bồ-tát thế tục [không phảilà người xuất gia] nêu lên hai tác phong khác nhau đối với thân xác : tránhkhông bám víu vào thân xác ảo giác nhưng cũng có thể sử dụng nó như một phươngtiện giúp người khác nhìn thấy con đường Đạo Pháp, nếu cần có thể lợi dụng cả tínhdục trong mục đích đó. Một phân đoạn khác thuật lại một câu chuyện khá lý thú vềmột vị nữ thần thuyết giảng cho một vị đệ tử của Đức Phật là Xá-lợi-Phất(Shariputra) thế nào là Tánh không của giới tính (xem phần trích dẫn các đoản vănđọc thêm). Tánh không toàn diện giúp người bồ-tát vượt lên trên khuôn khổ giớitính của thân xác, với điều kiện người bồ-tát phải thực hiện được các kết quả tâmlinh đích thực, không phải chỉ là những khái niệm đơn thuần, và nhất là người bồ-tátphải loại bỏ được mọi bám víu vào ảo giác của hiện thực.
Truyền thuyết thuậtlại nhiều giai thoại về các nhà sư "điên rồ" vượt qua ranh giới củacác giới luật quy định cho họ |
Phật giáo truyền sang Trung quốc vào thế kỷ thứ I thoáng chothấy một khúc quanh mới, nhất là trong Thiền học (Chan). Thiền nhắm vào việc tutập thực hiện bản chất không thực của dục vọng thay vì chỉ biết dựa vào các giớiluật cứng nhắc. Tuy nhiên đấy không có nghĩa là gạt bỏ Luật Tạng(Vinaya) mà chỉmuốn nêu lên sự vận hành của tâm thức quan trọng hơn sự gò bó của chữ nghĩa. Truyềnthuyết kể lại nhiều giai thoại về các nhà sư "điên rồ" vuợt qua ranhgiới của các giới luật quy định cho họ. Xin kể ra trường hợp của nhà sư Jigong(khoảng 1127-1209), tên ông có nghĩa là "con người đích thực" (zhenren), người đương thời xem ông là mộtnhà sư thích say sưa và dâm đãng. Một nhà sư khác người Triều tiên là Whonhyo(617-686) là một học giả uyên thâm, trước tác rất nhiều tập luận và bình giảikinh điển su-tra, thế nhưng ông không giữ được giới luật và lui tới các khu"ăn chơi", về sau ông hoàn tục cưới một công chúa và sinh được một đứacon trai. Cuối đời ông lang thang rày đây mai đó và truyền bá Phật giáo Tịnh độcủa Đức Phật A-Di-Đà. Tại Nhật bản, các điều khoản trong Luật Tạng(Vinaya) quy địnhcho người xuất gia không mấy khi được hoàn toàn tôn trọng. Vào thế kỷ thứ IX đạisư Tối Trừng (Saichô, 767-822) người sáng lập ra tông phái Thiên Thai (Tendai)thay thế các điều khoản trong Luật Tạngquy định cho người xuất gia bằng các lời nguyện của người bồ-tát. Và từ đó cácnhà sư trong tông phái này không còn tôn trọng chặt chẽ các giới luật trong Luật Tạng nữa. Trong Thiền học Zen, một hình thức của Thiền học ChanTrung hoa, Đạo Nguyên (Dogen, thế kỷXIII) khuyên nên đơn giản hóa mười giới luật quy định cho người xuất gia nhưng tuyệtđối phải giữ giới luật đoạn dục như một kỷ cương nơi chùa chiền. Thế nhưng điềukhoản ấy không cấm được nhà sư Nhất Hưu (Ikkyu, 1394-1481) hoàn tục, ông là mộtvị thiền sư rất phóng khoáng, trước tác nhiều bài thơ hài hước mang tính cáchdâm đãng đả kích sự kiện đồng tính luyến ái trong các tu viện [dù chỉ là một chi tiết và cũng chẳng làm thay đổi gì nhiều thếnhưng cũng xin nói rõ thêm là Nhất Hưu thuộc học phái Lâm Tế, không thuộc họcphái Tào Động của Đạo Nguyên - ghi chú thêm của người dịch]. Trong tôngphái Tịnh độ, Pháp Nhiên (Honen, 1133-1212) là một nhà sư chân chính nhưng đệ tửcủa ông là Thân Loan (Shinran, 173-1263) lại là người có gia đình và lập ra mộthọc phái mới là Tịnh độ chân tông (Jodoshin) và các nhà sư trong học phái này đềucó gia đình, [có thể xem đấy là các cư sĩ có gia đìnhđúng hơn là các nhà sư lập gia đình, ghi chú thêm của người dịch]. Sau cùngdưới triều đại Meiji (1868-1912), các nhà sư bắt buộc phải chọn cuộc sống cố định,do đó họ phải lập gia đình để có người nối dõi gìn giữ chùa chiền do dòng họ xâydựng, (Philippe Cornu).
Cácđoản văn đọc thêm
"Người bồ-tát câu bằng miếng mồicủa sự thèm khát"
Khổ đau của dâm ô
Bạn tìm kiếm lạc thú dâm dục và thụ hưởng như một thứ hạnhphúc, bệnh dâm ô theo đó sẽ trở nên trầm trọng hơn. Bạn tìm kiếm những gì bênngoài [có nghĩa là thân xác] của người đàn bà,thế nhưng càng tìm kiếm khổ đau càng trở nên nặng nề hơn cho bạn. Tương tợ như mộtngười bị bệnh ghẻ ngứa : người này hơ tay gần ngọn lửa, hay gãi cho đỡ ngứa [thế nhưng] đấy chỉ là cách làm cho tay thêm nóng bỏng.Trong lúc đó [lúc gãi hay đưa tay gần lửa] cóthể tìm thấy một chút thích thú [nhẹ nhõm, đỡ ngứa],thế nhưng về lâu dài, cái đau ăn sâu thêm [vào da].Lạc thú nhỏ nhoi ấy [của sự dâm dục] cũng thế,cũng chỉ là nguyên nhân của một thứ bệnh [ghẻ ngứa ănsâu thêm vào da] : đấy không phải là hạnh phúc thật sự cũng không phải làcách xóa bỏ bệnh tật. Bất cứ ai trông thấy một người bị bệnh ghẻ ngứa chữa chạytheo phương cách đó đều thương xót họ. Một người biết từ bỏ lạc thú cũng sẽ phảnứng như thế đối với sự dâm ô : khi người này trông thấy một tên điên rồ đang bịsự thèm khát nung nấu sẽ thương hại hắn, vì càng chạy theo lạc thú hắn càng khổđau nhiều hơn. Căn cứ vào những lý do vừa nêu lên, phải hiểu rằng thân xác mangbản chất của khổ đau và cũng là nguồn gốc của khổ đau.
quyển III, dịch giả Étienne LAMOTTE, InstitutOrientaliste[Viện Đông phương học Louvin - nước Bỉ],1970.
Tâm thức không có giới tính
Xá-lợi-phất hỏi vị nữ thần như sau :
- Này nữ Thần tại sao không đổi giới tính đi, [vì] bà chỉ là một người nữ ?
- Từ mười hai năm nay ta ra sức tìm kiếm các thuộc tính củamột người đàn bà thế nhưng ta chưa nhìn thấy chúng một cách minh bạch. Vậy thìta phải thay đổi cái gì đây ? Thí dụ như một ảo thuật gia tạo ra một người đànbà ảo giác và hỏi người đàn bà này sao không thay đổi giới tính, thế thì sự đòihỏi ấy đúng hay sai ?
Xá-lợi-phất đáp lại :
- Quả là sai. Một sáng tạo ảo thuật không mang những thuộctính được xác định rõ rệt giúp nó có thể biến đổi thật sự.
Vị nữ thần liền cất lời như sau :
- Chính như thế, tất cả mọi hiện tượng đều không có thuộctính xác định rõ rệt. Vậy tại sao ngươi lại hỏi ta sao không thay đổi thân xác?
Tức khắc vị nữ thần sử dụng uy lực của mình chuyển đổi hìnhtướng của mình sang cho Xá-lợi-phất và đồng thời biến mình thành hình tướng củaXá-lợi-phất, sau đó cất lời hỏi Xá-lợi-phất đang mang hình tướng của mình nhưsau :
- Này sao không thay đổi giới tính đi ?
Xá-lợi-phất nhìn thấy hình dáng lố lăng của mình liền thétlên :
- Không biết sự thay đổi có thật sự xảy ra hay không, thếnhưng trước mắt ta đang hóa thành một người đàn bà đây này !
Vị nữ thần đáp lại :
- Này Xá-lợi-phất, nếu ngươi có khả năng thay đổi được giớitính, thì tất cả đàn bà cũng làm được việc ấy. Này Xá-lợi-phất nếu ngươi khôngphải là đàn bà nhưng chỉ mang hình tướng bên ngoài của người đàn bà, thì tất cảđàn bà cũng thế thôi [chỉ mang hình tướng bên ngoài củangười đàn ông]. Vì thế mà Đức Phật bảo rằng tất cả mọi hiện tượng đều khôngmang giới tính đực hay cái.
Sau đó vị nữ thần lại dùng uy lực của mình trả lại hình tướngcho Xá-lợi-phất và cất lời hỏi :
- Thế vẻ duyên dáng của người phụ nữ của ngươi đâu rồi ?
- Nào tôi có cái vẻ duyên dáng phụ nữ nào đâu, nó cũng chẳngcó ở bất cứ nơi nào khác ?
- Đối với tất cả mọi hiện tượng cũng tương tợ như thế : chúngchẳng có ở bất cứ nơi nào và cũng chẳng nơi nào có chúng. Đấy là những gì ĐứcPhật giảng dạy.
[tức là kinh Vimalakirtidesasutra - Duy-ma-cật Sở thuyết Kinh]theo bảndịch tiếng Pháp của Patrick CARRÉ, Fayard, 2000.
Người Bồ-tát
Người bồ-tát rất nhạy cảm trước các đối tượng của giác quan.Thế nhưng người bồ-tát cũng vô cùng thành thạo trong nghệ thuật tập trung tâm thức :
Nhờ thế mà người bồ-tát làm cho bọn Ma vương (Mara) phải lúng túng,
Ngăn chận không cho chúng tác oai tác quái.
Thật tuyệt vời khi
Làm cho hoa sen mọc lên trong lửa đỏ.
Thế nhưng lại còn tuyệt vời hơn nữa
Khi tập trung được tâm thức trước sự bủa vây của thèm khát.
Đối với một số người, vị bồ-tát hiển hiện như một cô gái điếm,
Chỉ vì vị ấy muốn quyến rũ những ai bị thu hút bởi dâm dục.
Người bồ-tát lôi cuốn những người ấy bằng miếng mồi của sự thèm khát,
Trước khi đưa họ trở về với trí tuệ của chư Phật.
Tríchdẫn như trên đây, id.
Tan-tra thừa và tính dục
Philippe Cornu
Hoang Phong chuyển ngữ
Từ lâu nay đã có không biếtbao nhiêu sự hiểu lầm và thành kiến đối với Tan-tra thừa. Trước hết là người Tâyphương quá hấp tấp khi xem Tan-tra thừa đơn thuần như là một thứ kỹ thuật áp dụngtrên đường tu tập. Thật ra thì Tan-tra thừa Phật giáo còn gọi là Kim cương thừaxuất phát trực tiếp từ Đại thừa, là một con đường toàn vẹn mang lại thể dạng củaPhật. Tan-tra thừa hoàn toàn không đơn giản như một thứ kỹ thuật giúp giải thoátkhỏi tính dục. Biểu tượng của tính dục nêu lên trong Tan-tra thừa mang mục đíchtrình bày sự kết hợp bất khả phân giữa các cựcđối nghịch(polarités - polarities)trong tâm thức, trong vũ trụ và trong thực tế. Do đó các thần linh nam tính trongTan-tra thừa tượng trưng cho các phương tiện thiện xảo (upaya) trên đường tu tập và các thần linh nữ tính mang tính cách đối nghịchtượng trưngcho trí tuệ (prajna) hay là sự hiểubiết Tánh không, giữ vai trò chứng nhận kết quả do phương pháp (upaya) mang lại. Trong lãnh vực tâm linhtính chất phân cực tính dục cho thấy phương pháp (nam tính) nếu không hướng vàomột sự mở rộng (nữ tính) sẽ trở nên vô cùng nguy hiểm. Cũng tương tự như thế, cáchiện tượng trong vũ trụ (phân cực nam tính) chỉ có thể triển khai được trong môitrường không gian mở rộng (phân cực nữ tính) làm nền tảng (matrice - matrix) tiếpnhận hiện tượng.
Tinh khiết hóa các hậu quả
Tâm thức mang bản chất giác ngộ tức là không gian mở rộng(thể dạng nữ tính) đón nhận và phối hợp với sự sáng tỏ (thể dạng nam tính). Cácbiểu tượng chủ yếu của Kim cương thừa gồm có vajra một cây gậy kim cương[kim cương chùy] tượng trưng cho nam tính và ghantamột cái chuông nhỏ tượng trưngcho nữ tính hay phân cực vũ trụ. Các biểu tượng của chư Phật được trình bày bằngsự kết hợp nam và nữ tính không hề hàm chứa tính cách truy hoan dù cho cố tình gánthêm cho chúng tính cách thiêng liêng !
Vậy đối với vấn đề tính dục xác thịt thì sao ? Tại Nhật bản,các học phái Chân ngôn tông (Shingon) và Thiên thai tông (Tendai) chính thống [Chân ngôn tông và Thiên thai tông là các tông phái xuất pháttừ Tan-tra thừa] hoàn toàn loại bỏ các kinh sách tan-tra mang các biểutượng có tính cách diễn đạt cụ thể. Trong các tông Chân ngôn và Thiên thai cácbiểu tượng tính dục được trình bày thật kín đáo, thần linh thuộc hai phái tínhđược xếp bên cạnh nhau và các biểu tượng đó được sử dụng như một kỹ thuật tinh khiếthóa các tác động của hậu quả và các cảm nhận ô nhiễm về hiện thực. Thế nhưng vàothế kỷ XII cũng có một chi phái Chân ngôn tông mang tính cách lệch lạc gọi làTachikawa-ryu. Chi phái này chủ trương sử dụng thể dạng phúc hạnh của sựphối hợptính dục trong mục đích mang lại sự giác ngộ. Thật ra Lão giáo chịu ảnh hưởng nặngnề hơn hết trước các dị giáo diễn đạt lệch lạc về Tan-tra thừa. Nhờ vào các ảnhhưởng lệch lạc đó Lão giáo thu hút được nhiều tín đồ và phát triển rất mạnh. Cácnhà sư Phật giáo thuộc nhiều tông phái khác nhau phản đối tính cách "dị giáo"đó trong Lão giáo khiến Lão giáo bị cấm đoán ở Nhật vào thế kỷ XIV và các kinhsách Lão giáo bị đốt sạch.
Tại Ấn độ và Tây tạng kỹ thuật tu tập Tan-tra mang tính cáchhoàn toàn nội tâm, do đó các biểu tượng tính dục thường được trình bày lộ liễuhơn. Tuy nhiên sự kết hợp với người phối ngẫu (mudra) chỉ có thể được xem là một phép tu tập giác ngộ khi nào ngườidu-già đã đạt được một cấp bậc thật cao, phải có căn bản vững chắc về sự hiểubiết Tánh không, phát huy được lòng từ bi, chủ động được sự quán tưởng và cácphép tụng niệm man-tra, cũng như các phương pháp luyện tập du-già về khí lực. Nếuxem cách sử dụng tính dục là một kỹ thuật loại bỏ sự bám víu vào thế tục thì hoàntoàn không hiểu gì cả về sự tu tập Tan-tra. Do đó cũng không nên ngạc nhiên khithấy tính dục được sử dụng như một phương tiện biến cải : Tan-tra thừa là conđường chủ trương cách tu tập dựa trên sự biến cải giúp người tu tập biến đổi cácthứ nọc độc tâm thần thành trí tuệ nhờ vào các phương pháp cực mạnh của du-già.Trong khi tính dục tầm thường của thế tục biểu hiện sự thèm-khát-bám-víu và lạcthú, thì Tan-tra biến thể dạng ấy trở thành thiêng liêng và xem đó là cơ hội giúpcảm nhận thể dạng phúc hạnh, xóa bỏ hoàn toàn thể dạng tâm thức thô thiển để thayvào đó bằng thể dạng tâm thức tinh khiết của ánh sáng trong suốt. Thông thường ánhsáng trong suốt chỉ thể hiện khi chết, thế nhưng khi chủ động được sự phối hợptính dục sẽ tạo ra một thể dạng tương tợ như thể dạng tâm thức khi rời bỏ thânxác. Nhờ vào du-già "cái chết ngắn ngủi" và "u tối" của khoáilạc sẽ nhường chỗ cho các tia sáng rạng đông của ánh sáng trong suốt, khi thựchiện được thể dạng đó người du-già và người phối ngẫu đạt được sự tỉnh thức phátsinh trong lúc chết. Đây là một trong nhiều thí dụ nêu lên xung năng dục tính(eros) đi đôi với xung năng của cái chết (thanatos)..., (Philippe Cornu).
Vài lời góp ý của người dịch
Phật giáo sử dụng phương pháp phân giải để tiếp cận vớihiện thực. Sự phân giải đó hướng vào hai chiều khác nhau, một chiều sử dụng sựphân cắt các hiện tượng đến cùng cực, đến chỗ không còn lại gì cả tức là tánhkhông của chúng. Chiều thứ hai hướng vào cách nhìn thật rộng lớn bao gồm tất cảmọi hiện tượng giúp quán thấy bản chất và các quy luật toàn cầu chi phối sự vậnhành của chúng, chẳng hạn như nguyên lý tương liên giữa các hiện tượng (lý duyênkhởi), nguyên lý vô thường, quy luật nguyên nhân hậu quả... Các bài viết trên đâyđưa ra một số kết quả rút tỉa từ các phương pháp phân giải và cho thấy Phật giáokhông tìm cách trực tiếp "xử lý" những tác động tai hại của tính dục,cũng không quy lỗi cho thân xác như là cơ sở làm phát sinh ra dâm dục. Trái lạiPhật giáo phân tích xa hơn để chứng minh cho thấy mọi thứ khổ đau và thác loạn làhậu quả phát sinh từ sự bám víu trong tâm thức.
Phật giáo Nguyên thủy tìm cách ngăn chận các tác động taihại của tính dục bằng các giới luật khắt khe và các liều thuốc hóa giải. Phậtgiáo Đại thừa cũng sử dụng giới luật để hạn chế tác động của tính dục nhưng đồngthời cũng tìm cách vượt lên trên tính dục để mang lại một chút phóng khoáng trongkỷ cương đạo đức của người bồ-tát xuất gia hay tại gia giúp họ hành động hữu hiệuhơn. Phật giáo Tan-tra dựa vào một cách tiếp cận khác hẳn, đó là cách trực tiếplợi dụng xung năng của tính dục hướng thẳng vào sự giác ngộ.
Ngày nay nhờ vàokhoa học, triết học, xã hội học... chúng ta được thừa hưởng một sự hiểu biếtphong phú hơn, vậy những hiểu biết đó có góp phần gì thêm cho Phật giáo trong mụcđích hướng dẫn chúng ta tìm hiểu sâu xa hơn về tính dục và những tác động của nóhầu giới hạn những hậu quả tai hại và thác loạn do nó gây ra trong xã hội vàcho mỗi con người chúng ta hay không ? Để trả lời cho câu hỏi trên chúng ta thửphân tích nguyên nhân của xung động tính dục dưới một khía cạnh khác, xa hơn cấpbậc thân xác và tâm thức bằng cách dựa vào khái niệm về bản năngxem sao.
Thật vậy chúng ta thường xuyên bị thúc đẩy bởi bản năng đủloại. Trong số đó có ba thứ bản năng gây ra tác động mạnh nhất đó là muốn ăn, muốn dâm và sợ chết. Muốn ăn làbiểu hiện của bản năng sinh tồnlàmphát sinh ra sự bảo vệ miếng ăn, ngân hàng, tiền bạc, của cải, tranh dành, biểnlận, tham lam, keo kiệt, súng đạn, chiến tranh, cướp giật, giàu sang, nghèo đói,dư thừa... Muốn dâm là bản năng dục tínhhay truyền giống, đó là bản năng làmphát sinh sự ghen tuông, si mê, thất tình, "hạnh phúc", buồn khổ, mặccảm, đâm chém, tự tử, tù tội..., bản năng đó biểu hiện dưới muôn ngàn thể dạng nhưphấn son, quần áo, nước hoa, thi phú ướt át, nhạc trữ tình, phim ảnh dâm ô, tiểuthuyết tình cảm... Sợ chết là bản năng tựvệhay bảo tồn sự sốngcủa chínhmình, làm phát sinh ra triết học, tôn giáo đủ loại, y khoa, thuốc men, phù phép,luyện đan bất tử, sáng chế ra mọi cảnh giới cực lạc... với mục đích được sống mãidưới bất cứ hình thức nào.
Tóm lại thế giới của hiện tượng vô cùng phức tạp, thế nhưngnếu suy ngược về nguyên nhân làm phát sinh ra các hiện tượng thì cõi ta-bà đầybiến động này cũng không phải là phức tạp lắm. Bản năng muốn ăn, muốn dâmvà sợ chếttác động, khống chế và điều khiểntất cả mọi sinh vật từ con người, muôn thú cho đến côn trùng và các sinh vật nhỏbé, một cách vắn tắt là tất cả chúng sinh. Tác động của bản năng tạo ra sự bámvíu và trói buộc mang lại khổ đau. Bản năng đó do đâu mà ra ? Do vô minh căn bảncòn gọi là vô minh nguyên thủybuộc chặt chúng sinhvào chu kỳ hiện hữu. Sinh ra làm người, chúng ta mang bản năng của con người,sinh ra dưới thể dạng một con thú, chúng ta mang bản năng của một con thú. Nghiệpcá nhân tác động thêm vào đó tạo ra sự đa dạng của tất cả chúng sinh.
Khi ý thức được bản năng đang điều khiển và khống chế chúngta, đương nhiên chúng ta phải tìm cách giới hạn tác động của chúng để tìm lấy tựdo và giải thoát cho mình. Một cách đơn giản, nếu đủ ăn thì không cần phải thamlam, cướp giật, gây ra chiến tranh để bảo vệ của cải hay làm giàu thêm, nếu muốntruyền giống thì hãy nhìn vào gần bảy tỉ người đang đau khổ trên hành tinh này,nếu sợ chết thì thật là hoài công vì không thể tránh khỏi.
Riêng đối với bản năng tính dục thì giáo lý Phật giáo đãdự trù trước các giới luật ngăn chận và các phương thuốc hóa giải. Giới luậttrong Phật giáo Nguyên thủy nêu lên trường hợp cố ý hay vô tình phóng thải tinhdịch chẳng hạn, đấy chỉ là tình trạng lạc vào chi tiết hay ít ra cũng chỉ là mộthình thức câu nệ và bám víu. Phật giáo Đại thừa tỏ ra phóng khoáng hơn đối vớingười bồ-tát, thế nhưng muốn được hưởng tính cách phóng khoáng trong giới luậtthì phải là một người bồ-tát trước đã. Sự bành trướng của tông phái Tan-tra thậtgiới hạn so với các tông phái khác, số người tu tập cao thâm có thể lợi dụng đượcsức mạnh của tính dục trên đường giác ngộ quả thật vô cùng hiếm hoi. Người tu tậpcó thể nhìn vào tấm gương của Đức Đạt-lai Lạt-ma, Ngài là một người tu tập theoPhật giáo Tan-tra thế nhưng Ngài là một nhà sư hoàn toàn đoạn dục.
Bures-Sur-Yvette, 02.12.10
Hoang Phongchuyển ngữ