Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Truyền thông và sự phát triển tư tưởng Phật giáo

25/01/201211:39(Xem: 3870)
Truyền thông và sự phát triển tư tưởng Phật giáo

Phat_Thich_Ca_7QUAN HỆ GIỮA TRUYỀN THÔNG VÀ GIÁO PHÁP

Trong một số bài viết trước, chúng tôi đã có dịp tìm hiểu và giới thiệu những đóng góp của truyền thông hiện đại đối với hoạt động hoằng pháp, lợi sinh, hỗ trợ tu tập… của đạo Phật. Truyền thông hiện đại được xem là phương tiện mới để đưa Phật pháp đến với đông đảo Tăng Ni Phật tử và nhân sanh. Nhưng truyền thông không chỉ đơn thuần là một phương tiện. Phương tiện không phải tách rời hoàn toàn nội dung mà nó chuyên chở. Phương tiện có tác dụng nhất định đối với nội dung mà nó truyền tải. Trường hợp truyền thông hiện đại đối với đạo Phật đang được tìm hiểu ở đây cũng thế.

PHẬT GIÁO KHÔNG PHẢI LÀ MỘT THỰC THỂ TĨNH TẠI, BẤT BIẾN

Sự phát triển của tư tưởng Phật giáo đã được báo trước từ ngay khi đức Phật còn tại thế. Chúng ta đều biết đến thí dụ nắm lá trong tay mà Ngài đã nói với đệ tử. Giáo pháp không phải chỉ trong tay Ngài, mà là cả một khu rừng. Nhưng nắm lá trong tay ngài là điều cần thiết cho con người, cho xã hội lúc đó.

Phật tử đời sau không thểtrói buộc tư tưởng mình trong nắm lá đó, mà do nhu cầu phát triển tất yếu phải hướng về rừng cây. Đại thừa Phật giáo ra đời cũng từ ý hướng đó. Sự ra đời và phát triển của các bộ luận cũng là sự phát triển theo hướng tìm vào rừng cây. Đạo Phật đã không tự trói mình vào các bộ kinh Nikaya, tức là không dừng lại ở những chiếc lá. Hai mươi lăm thế kỷ của đạo Phật ở mấy chục quốc gia trên 1/3 quả địa cầu đã nói lên điều đó.

Ngày nay, kho tàng tư tưởng Phật giáo không chỉ là kinh, mà là một số sách có số lượng lớn hơnhàng chục ngàn lần. Tư tưởng Phật giáo là một sinh thể, tăng trưởng sinh sôi, không phải là một hòn đá thờ tĩnh tại bất biến.

Điều vừa kết luận ở trên còn thể hiện rõ ở cách định nghĩa giáo pháp từ đức Phật. Trong kinh Viêngiác, ngài khẳng định rõ: “Tất cả giáo lý chỉ có giá trị như ngón tay chỉ mặt trăng, đừng lầm lẫn ngón tay là mặt trăng”.

Giáo pháp là phương tiện,mà phương tiện đương nhiên chỉ là cái để phục vụ, nó thay đổi tùy thuộcvào đối tượng, không gian, thời gian, hoàn cảnh. Và khi đã nói đến vai trò của thời gian, hoàn cảnh đối với phương tiện, tức là ta đã nói đến tác động của truyền thông đối với giáo pháp. Đó là một hiện thực khách quan cần nhận diện. Hoàn cảnh thay đổi tất yếu dẫn đến sự thay đổi của “phương tiện”, mà ở đây là giáo pháp.

Sự phát triển của truyền thông hiện đại với báo in, báo điện tử, truyền hình… chắc chắn sẽ làm cho sự phát triển tư tưởng Phật giáo khác hẳn với 1000 năm trước, mà đúng ra, chỉ là một trăm năm trước, hay vài chục năm trước. Đây là một vấn đề rất lớn cần được đầu tư nghiên cứu qui mô. Ở đây chúng tôi chỉ xin nêu một số phác thảo.

TRONG QUÁ KHỨ, TRUYỀN THÔNG GÓP PHẦN PHÁT TRIỂN ĐẠO PHẬT VỀ MẶT TƯ TƯỞNG

Tư tưởng Phật giáo có thểnhìn nhận thành hai bộ phận: bản thân tư tưởng và sự truyền bá tư tưởng. Môi trường truyền bá tư tưởng thay đổi tất yếu dẫn đến sự biến đổi trong hoạt động tư tưởng. Ở đây, truyền thông đi theo hướng phát triển, do vậy, đóng góp chủ yếu của nó cũng ở việc thúc đẩy sự phát triển của tư tưởng.

Có thể nói, trong Phật giáo sự phát triển của tạng Luận gắn liền với sự phát triển của kỹ thuậtin ấn, tức là bước phát triển mới quảng bá tư tưởng. Trong từ “luận” đãhàm nghĩa có yếu tố truyền thông. Luận không chỉ là cần có người tiếp nhận, mà còn cần đến hoạt động phản hồi, bàn bạc, trao đổi. Luận là trước tác và phổ biến trước tác về tư tưởng Phật giáo.

Sựphát triển của kỹ thuật là giấy và khắc in tất yếu đã đưa tới bước pháttriển luận trong hoạt động tư tưởng Phật giáo, và sau đó là bước phát triển “sách”. “Sách”, “lục” là bước phát triển tiếp theo của luận. Quá trình đó diễn tiến trong nhiều thế kỷ và gia tăng đột biến vào đầu thế kỷ XX, khi mà kỹ thuật in ấn phát triển vượt bậc cho phép việc in ấn xuất bản trở nên dễ dàng, thuận tiện, rẻ tiền, gia tăng vượt bậc số lượng ấn bản.

Ở phương Tây, một số nhà nghiên cứu lịch sử đạo Cơ Đốc đã cho rằng sự phát triển của tư tưởng TinLành cải cách cũng gắn liền với sự phát triển kỹ thuật in sắp chữ. Việcphát minh ra máy in đã là động lực và môi trường cho tư tưởng Tin Lành cải cách lan rộng ở Tây Âu thời trung đại, đồng thời cũng gián tiếp làm phong phú tư tưởng cải cách đạo Cơ Đốc, thông qua việc thúc đẩy phổ biếncác trước tác cải cách.

TRUYỀN THÔNG HIỆN ĐẠI VÀ TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO

Khả năng lớn lao của truyền thông hiện đại trong việc quảng bá tư tưởng vừa đóng góp, đồng thời, cũng vừa tạo ra những vấn đề lớn đối với sự phát triển của tư tưởng Phật giáo. Có thể nói, nó là con dao hai lưỡi.

Những khó khăn của việc in ấn thời khắc bản tạo thành một sự thanh lọc tất yếu đối với việc pháttriển và phổ biến tư tưởng Phật giáo. Trong giai đoạn việc truyền bá tưtưởng Phật giáo được thực hiện bằng việc ghi chép trên lá, thì chủ yếu chỉ có lời Phật dạy phổ biến bằng phương tiện truyền thông này.

Đến khi kỹ thuật khắc bảnra đời, tác giả những xuất bản phẩm Phật giáo là những vị Bồ-tát, Thánhtăng, Cao tăng. Đó đã là một bước mở rộng. Đến nay, thì bất cứ ai cũng có thể xuất bản tác phẩm “Phật học” của mình, viết báo, mở web, viết blog... Các vị sư trẻ, các cư sĩ cũng có thể “thuyết pháp”, rồi phổ biếnchương trình audio video thuyết pháp của mình bằng nhiều hình thức như bán, tặng, phát lên Internet…

Trong sự bùng nổ truyền thông đó, hầu như không còn khái niệm thanh lọc từ phương tiện. Điều gì đi sẽ kèm với sự phát triển này? Chắc chắn mọi người trong chúng ta đều có thể tiên đoán.

Cùng với sự phát triển truyền thông, tư tưởng Phật giáo đang đi vào một khúc quanh mới. Chắc chắn, phương tiện mới sẽ hình thành những nội dung mới, và theo đó là những vấn đề mới.

Tuy nhiên, chúng ta vẫn lạc quan. Trong lịch sử, truyền thông và tư tưởng Phật giáo luôn luôn đồng hành trong sự phát triển. Những lợi ích mà truyền thông mang lại vàluôn luôn lớn hơn những vấn đề mà nó gây ra cho Phật giáo. Điều quyết định là làm sao chúng ta khai thác những lợi ích, thúc đẩy sự phát triểncủa tư tưởng Phật giáo, đồng thời giải quyết những vấn đề phát sinh từ đó.

(TS Pháp luân 55)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
16/08/2019(Xem: 11300)
Đức Phật là đấng đạo sư, là bậc thầy của nhân loại, nhưng ngài cũng là nhà luận lý phân tích, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ đại. Kinh tạng Pāli cho chúng ta thấy rõ về các phương phápgiảng dạy của đức Phật một cách chi tiết. Tùy theo từng đối tượng nghe pháp mà Ngài có phương thức truyền đạt khác nhau. Chúng sanh có vô lượng trần lao, phiền não, thì Phật pháp có vô lượng pháp môn tu. Nếu sử dụng đúng phương pháp thì hiệu quả giảng dạy sẽ đạt được kết quả tốt. Tri thứcPhật học là nguồn tri thức minh triết, là giáo lý để thực hành, lối sống, do đó phương pháp giảng dạy là vấn đề vô cùng cần thiết để giới thiệu nguồn tri thức minh triết ấy.
05/06/2019(Xem: 16250)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
10/05/2019(Xem: 12907)
Các nước phương Tây đang sống trong một thời đại bất thường: Trung Quốc trỗi dậy và uy hiếp, kinh tế khủng hoảng, nợ công cao ngất, nạn di dân đe doạ, xã hội bất bình đẳng, dân chúng nổi giận giúp đưa cho ông Trump vào Tòa Bạch Ốc và đẩy Vương Quốc Anh thống nhất ra khỏi Liên Âu. Đâu là nguyên nhân cho nền kinh tế thị trường không còn vận hành hoàn hảo và giải pháp cho hệ thống dân chủ tự do đang lâm nguy? Phần một lý giải cho vấn đề này theo quan điểm của Francis Fukuyama trong tác phẩm Identity: khủng hoảng về bản sắc của các nhóm sắc tộc là nguyên nhân, đấu tranh để công nhận nhân phẩm là
12/02/2019(Xem: 6778)
Nhà sư Nhật bản Kenjitsu Nakagaki đang tìm cách thuyết phục người Tây Phương về ý nghĩa của chữ Vạn (Swastica) mà người Nhật gọi là manji. Chẳng qua là vì những người quốc-xã (nazi) đã biến chữ này thành một biểu tượng cấm kỵ trong các nước Tây phương ngày nay. Thế nhưng chữ Vạn đã ăn sâu vào nền văn hóa của Nhật Bản từ khi Phật giáo mới được đưa vào xứ sở này, và nhà sư Nakagaki muốn nhấn mạnh với người Tây Phương là chữ Vạn với tư cách là một biểu tượng hoà bình cũng đã được sử dụng trong rất nhiều tôn giáo!
04/01/2019(Xem: 82294)
“Hiểu về trái tim” là một cuốn sách khá đặc biệt, sách do một thiền sư tên là Minh Niệm viết. Với phong thái và lối hành văn gần gũi với những sinh hoạt của người Việt, Minh Niệm đã thật sự thổi hồn Việt vào cuốn sách nhỏ này. Xuyên suốt cuốn sách, tác giả đã đưa ra 50 khái niệm trong cuộc sống vốn dĩ rất đời thường nhưng nếu suy ngẫm một chút chúng ta sẽ thấy thật sâu sắc như khổ đau là gì? Hạnh phúc là gì? Thành công, thất bại là gì?…. Đúng như tựa đề sách, sách sẽ giúp ta hiểu về trái tim, hiểu về những tâm trạng, tính cách sâu thẳm trong trái tim ta.
26/11/2018(Xem: 11150)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
25/11/2018(Xem: 5335)
Tứ Ân hay là Tứ Trọng Ân, bốn ơn nặng mà người Phật tử phải cố gắng đền đáp, cho vuông tròn. Đó là: 1) Ơn Cha Mẹ: Chín tháng cưu mang, sinh thành dưỡng dục. Cha mẹ luôn vì con mà phải mất ăn mất ngủ, suốt đời làm lụng vất vả, chịu đủ thứ lao tâm khổ trí, có thể đến hy sinh tất cả, để nuôi nấng và dạy dỗ con cho nên người. Ơn nầy, thật là như biển rộng trời cao. Nên ca dao ta có câu: "Ơn cha như núi Thái sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Một lòng thờ mẹ kính cha, Cho tròn chữ hiếu, mới là đạo con"
03/06/2018(Xem: 21670)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
17/03/2018(Xem: 10502)
Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau? Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem đàn gảy cho trâu nghe. Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định (Zen). Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần. Nếu luyện tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra. Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời. Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn lo
13/03/2018(Xem: 11321)
Từ lúc sinh ra, tất cả chúng ta muốn sống một đời sống hạnh phúc và đó là quyền của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều người cùng chia sẻ quan điểm rằng hệ thốn giáo dục hiện hữu của chúng ta là không đầy đủ khi đi đến việc chuẩn bị cho con người yêu thương hơn – một trong những điều kiện để hạnh phúc. Như một người anh em nhân loại, tôi nguyện làm cho mọi người biết rằng tất cả chúng ta cùng sở hữu những hạt giống của từ ái và bi mẫn. Có một bộ não thông minh chưa đủ; vì chúng ta cũng cần một trái tim nhiệt tình
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567