Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Suy niệm từ bức thông điệp của thời đại mới

05/05/201103:29(Xem: 3323)
Suy niệm từ bức thông điệp của thời đại mới
lotus_7
SUY NIỆM TỪ BỨC THÔNG ĐIỆP CỦA THỜI ĐẠI MỚI

Hoàng Thượng

"Hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp; ngươi là hải đảo, là nơi nương tựa của chính ngươi"

Tôi xin vào đề từ câu kinh: "Hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp; ngươi là hải đảo, là nơi nương tựa của chính ngươi!" để làm tiền đề suy niệm trong mùa Phật Đản năm nay, mùa Phật Đản lần thứ 2543, kể từ sau ngày Phật diệt độ.

Chúng ta biết rằng, trong một bối cảnh lịch sử, khi mà phần lớn các tôn giáo đều chủ trương con người và mọi hiện hữu trên thế gian này hoặc là tạo vật của Thượng Đế, của đấng toàn năng vô hạn, của một bản thể Đại ngã", hoặc là phải chịu sự chi phối của một thế lực siêu nhiên vô hình nào đó, thì Phật giáo ngược lại, chủ trương con người là chủ nhân của tất cả. Mỗi con người là một thế giới, một vũ trụ, một hành tinh của các phạm trù đối lập: khổ đau và hạnh phúc, thiện và bất thiện, và quan trọng hơn hết, mỗi người là hải đảo của chính mình, là nơi nương tựa của chính mình. Lời tuyên bố của bức thông điệp ấy quả thật là phi thường. Vì đối diện trước nó, con người chỉ có thể hoặc là sống buông trôi theo dòng sinh tử bất tận, sống như kiểu: "Phận bèo đâu quản bước xa, lênh đênh đâu nữa cũng là lênh đênh" (Nguyễn Du); hoặc là - chủ động tái thiết cuộc đời bể dâu này thành một hành tinh của hạnh phúc thực thụ - Niết bàn trần thế hay "Tịnh độ nhân gian".

Thế nhưng trước hết, theo quan niệm thông thường, chúng ta biết rằng, đặc tính của con người là bất toàn. Do bất toàn mà con người luôn hướng về một đấng toàn thiện, hòng mong được cứu rỗi, được độ trì chở che. Và lúc bấy giờ, với một tâm thức như thế, hẳn nhiên, chỉ có kẻ trên cao mới có thể cứu người dưới thấp. Cũng như một người, khi đứng dưới đất thì không thể tự mình nắm tóc mình và nhấc mình lên khỏi mặt đất. Nếu muốn được như thế, phải có một người khác ở trên cao làm nhiệm vụ cứu độ Ầ Phải chăng xuất phát từ ý niệm đó mà con người luôn luôn đi tìm kiếm một đối tượng siêu nhân? Và cũng từ đó, thay vì từ cứu độ theo trực nghĩa, được hiểu như là sự giúp đỡ lại biến thành học thuyết cứu độ, như cứu độ cho những linh hồn (SoulỖs salvation) và cưu mang trong nó một thế giới của huyền học thần bí? Từ đó, khi con người càng trầm kha trong dục vọng khổ đau thì tâm thức của họ càng bị cuốn hút vào thế giới của các thế lực vô hình, ở đó khát vọng được cứu độ xuất hiện như là một trú xứ bình yên duy nhất mà con người khả dĩ nương tựa. Bởi lẽ, như đã nói, đặc tính của con người là tội lỗi và khổ đau, bản chất của nó không gì khác hơn là sự bất lực, sự không vượt qua nổi con người của chính mình - con người của khát vọng. Do đó, càng khát vọng thì càng khổ đau. Tất nhiên, khát vọng được đề cập ở đây là khát vọng được phát sinh từ tự ngã - cái tôi, cái của tôi, cái tự ngã của tôi. Và, phần lớn nhân loại đều/ hoặc ra đi, hoặc trở về với cái tự ngã đó. Đây là lý do tại sao Đức Phật kêu gọi sinh linh của Ngài "hãy trở về nương tựa mình và nương tựa pháp".

Hẳn bạn đọc cũng hiểu rõ khái niệm trở về - tiếng gọi đầu tiên trong bức thông điệp của thời đại mới. Đó là sự quay đầu trở lại, trước hết là với con người của chính mình và tâm thức của chính mình; và sau đó là trở lại với con đường Chánh pháp (nương tựa pháp).

Ở đây, con người xuất hiện như một thế giới phổ quát với đầy đủ các hiện tượng sai biệt đa thù, các đức lý thiện ác phân minh, và cho đến cả những phẩm tính siêu việt (như những con người đã chứng ngộ). Và Pháp xuất hiện như những chân lý, vừa mang tính hiện thực khách quan - chân lý công ước, lâm thời; lại vừa mang tính tuyệt đối - chân lý bất khả thuyết.

Từ đây chúng ta thấy rõ rằng, Đạo theo Phật giáo là con đường qui ngưỡng về một nếp sống, mà ở đó vai trò của Thượng đế không có mặt. Mọi trách nhiệm về khổ đau và hạnh phúc của đời người đều do con người phán quyết; và điều đáng chú ý nhất ở đây là định luật nhân quả, một định luật mà đối với con người thì quả thực là vô cùng khắt khe. Nhân quả ở đây chính là định mệnh hiện tiền của mỗi con người. Vì đó là nơi tích tụ của tất cả thiện nghiệp cũng như ác nghiệp của con người chính nó từ vô lượng kiếp quá khứ. Và tương lai của định mệnh đó như thế nào cũng tùy thuộc vào sự tạo tác của chính con người - định mệnh hiện tiền này. Như thế, sự trở về ở đây, trước hết là sự trở về với mọi trách nhiệm luân lý đạo đức, mọi trách nhiệm trong cuộc sống tư duy và hành động, trong thể cách ứng xử giữa tự thân và tha nhân, giữa cá nhân và xã hội của mỗi con người. Thế giới này là bao la, đời sống tâm thức này là vô tận; do đó, sẽ không có bất kỳ một động lực tự nhiên hay siêu nhiên nào có thể ngự trị trong dòng sinh tử luân lưu, ngoại trừ định luật nhân quả. Nhân quả như một thứ trái khoán, mà một ngày nào đó nó phải được trả về cho trái chủ.

Trên một bình diện cao hơn, Đức Phật dạy tất cả chúng sinh đều có khả năng thành Phật. Nghĩa là cái hạt giống giác ngộ hay cái năng lực giác ngộ là năng lực tiềm ẩn, vốn có trong tâm thức của mọi chúng sinh. Do đó, trở về nương tựa mình chính là trở về với khả năng giác ngộ mà bao lâu nay con người đã lãng quên. Trên con đường tìm kiếm hạnh phúc và chân lý, con người luôn luôn đóng vai trò trung tâm. Nghĩa là, khổ đau hay hạnh phúc là tùy thuộc ở cái nhìn của mỗi con người khác nhau. Nhưng quan trọng hơn hết, cội nguồn của hạnh phúc phải được khai phóng từ nguồn lực cá thể, tức là từ trong chiều sâu tâm thức của mỗi người, đó là một bản thể tâm thức bình yên nội tại, nó vận hành như một nguồn sinh lực uyên nguyên, như thác đổ, như suối nguồn, như đại dương mênh mông bao la không giới tuyến. Và cội nguồn hạnh phúc đó, người ta không thể cho nhau, và không thể vay mượn của nhau. Ở đây cần ghi nhận rằng, dù là hiện thực hay tiềm năng, thì cội nguồn hạnh phúc vẫn là yếu tố thường trực vốn có trong mỗi con người. Thực tế cho thấy rằng, đời sống của con người do không làm chủ được dòng vận hành của tâm thức, thân thể, môi trường v.v.. nên thường xuyên đối diện với hai ảnh tượng bất an, đó là hy vọng và sợ hãi. Cho đến khi nào con người còn tìm kiếm hay nương tựa vào một nơi trú ẩn nào khác ngoài con người của chính mình, thì khi đó đối tượng của sự bất an vẫn luôn luôn hiện hữu trong dòng sông tâm thức. Càng không làm chủ thì càng dao động. Càng bị dao động thì càng thao thức trong/ hoặc hy vọng hoặc sợ hãi. Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng đó là yếu tố chánh pháp. Vì như đã đề cập, mặc dù con người cũng như tất cả chúng sinh đều có khả năng thức tỉnh - giác ngộ. Song, do tính chất lầm lỗi (vô minh) và bất toàn nên cần phải được soi sáng bởi chánh pháp trong mọi thế cách của tư duy và hành động. Bấy giờ, Pháp đóng vai trò là con đường dẫn vào Đạo. Và Pháp ở đây được cụ thể hoá như là cuộc sống Giới - Định - Tuệ. hay nói khác hơn là chân lý như thật (Dharma) đối với con người, một thứ chân lý mà con người dù muốn hay không nó vẫn là như thế. Đó chính là dòng nhân quả hai chiều của thế gian (con người còn vô minh) và bậc xuất thế (con người giác ngộ) như được cụ thể hóa trong pháp thoại về Bốn chân lý.

Nói tóm lại, trên căn bản của đời sống, con người cần phải làm chủ được, hay ít ra là điều hành được cuộc sống tâm lý và vật lý của chính mình. Và xa hơn, trên con đường đi đến giác ngộ, mỗi người phải tự thắp đuốc lên mà đi, như lời Đức Phật dạy; "Ngươi phải làm công việc của ngươi, vì Như Lai chỉ chỉ dạy con đường" (1) hoặc là: "Ngươi là nơi nương tựa của chính ngươi, không ai khác có thể là nơi nương tựa" (2). Đây chính là bức thông điệp của thời đại mới, một bức thông điệp không tiền khoáng hậu trong lịch sử tôn giáo và triết học Đông phương mà cách đây trên 26 thế kỷ, Đức Phật đã truyền trao cho loài người.

* Chú thích:
(1) - Dhp.XX4 ; (2) - Dhp.XII 4


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
23/10/2010(Xem: 10286)
Trước hết, có lẽ tôi cần phải thú nhận là không có cách nào tôi có thể trình bày đầy đủ về thuyết Tiến Hóa. Lý do chính là: Tiến Hóa là một quy luật thiên nhiên trong vũ trụ, và trong gần 150 năm nay đã được kiểm chứng, phát triển, từ đó giải thích được nhiều điều trong vũ trụ, thiên nhiên. Ngày nay, thuyết Tiến Hóa bao trùm rất nhiều bộ môn khoa học. Do đó, không ai có thể tự cho là mình biết hết về thuyết Tiến Hóa. Một khó khăn khác tôi vấp phải khi viết về thuyết Tiến Hóa là những danh từ chuyên môn mà tôi không đủ khả năng để dịch ra tiếng Việt hoặc không biết là đã được dịch ra tiếng Việt. Vì những lý do trên, trong bài khảo luận này, tôi chỉ tự hạn trong chủ đề
20/10/2010(Xem: 5107)
Tích Lan (Sri Lanka) là một xứ sở Phật giáo lâu đời nhất, Phật giáo Theravada là một tôn giáo lớn tại đảo quốc này từ thế kỷ thứ hai trong triều đại vua Devanampiya-Tissa đã được vị tu sĩ Ngài Mahinda, con trai của vua Ashoka, bên Ấn Độ sang truyền giáo. Sau đó, Ni Sư Sanghamitta, con gái của vua Asoka, được biết rằng đã mang một nhánh cây Bồ Đề trích từ cây Bồ Đề nguyên thuỷ tại Bồ Đề Đạo Tràng và đã được trồng tại Anuradhapua. Bắt đầu từ đó cho đến ngày hôm nay, Phật giáo tại Tích Lan đã từng và vẫn còn một lòng kính trọng cây Bồ Đề mà ở dưới bóng cây đó Đức Phật đã Giác Ngộ. Những vị tu sĩ Tích Lan đã đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bá đạo pháp cho cả hai tông phái Nguyên Thủy và Đại Thừa khắp suốt Đông Nam Á Châu. Tại Tích Lan, vào thế kỷ thứ nhất trước CN trong triều
19/10/2010(Xem: 3737)
Đạo Phật tự thân là đạo giác ngộ, hay nói cách khác là con đường dẫn đến cảnh giới thánh trí tự chứng viên mãn và siêu việt. Viên mãn vì thánh trí ấy phổ châu khắp ba thời mười phương, là căn thân của vạn pháp, không gì lớn hơn, không gì nhỏ bằng. Siêu việt vì thánh trí tự chứng ấy đã nhổ sạch gốc rễ của vô minh vốn là mầm mống của phiền não và đau khổ,
11/10/2010(Xem: 4543)
Chúng ta đã biết đến B. Russell như một trong những nhà sáng lập triết học phân tích. Tuy nhiên, ông không chỉ là một nhà triết học có nhiều tác phẩm, mà còn là người mang triết học đến với đại chúng và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực khác, như lôgíc học, tôn giáo và thần học, tâm lý học, ngôn ngữ học,… Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến quan điểm của ông về tôn giáo
22/09/2010(Xem: 5984)
Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
22/09/2010(Xem: 5807)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
10/09/2010(Xem: 50392)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
06/09/2010(Xem: 6043)
“Trước sự Nô Lệ của Con Người” là nhan đề chúng tôi dùng để gọi tập sách này, gồm những bài viết và những bài thảo luận quan trọng mà chúng tôi đã trình bày trong những hội nghị quốc tế và quốc nội. Những vấn đề đặt ra trong tập sách đều nhắm vào một trọng tâm độc nhất: tìm lại con đường của văn hoá Việt Nam trước sự nô lệ của con người để khai quan một chân trời cho ý thức tự do của nhân tính
03/09/2010(Xem: 4679)
Khi thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng. Những liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.
30/08/2010(Xem: 3516)
Theo lịch sử tiến hóa của loài người, từ thời kỳ nguyên thủy, dân số trên trái đất này còn rất ít. Vì thế, sự ưu đãi của thiên nhiên mà con người được thừa hưởng rất lớn. Dĩ nhiên lúc đó, người ta không phải đặt vấn đề về kinh tế, mọi người chỉ sống và hưởng thụ tài sản của thiên nhiên một cách đơn giản. Nhưng đến giai đoạn dân số được phát triển với đời sống con người được tập hợp thành bộ tộc thì vấn đề bắt đầu xảy ra, vì đã xuất hiện sự tranh chấp về những nguồn lợi thiên nhiên.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567