Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Có bao nhiêu người từng đi bộ trên Mặt Trăng?

29/10/202406:38(Xem: 235)
Có bao nhiêu người từng đi bộ trên Mặt Trăng?


Thứ ba, 29/10/2024, 00:00 (GMT+7)

Có bao nhiêu người từng đi bộ trên Mặt Trăng?

Dù tốn kém và chứa đầy rủi ro, chương trình Apollo là một thành công khổng lồ của NASA khi đưa tổng cộng 12 phi hành gia lên bề mặt Mặt Trăng.


12 nguoi di bo tren mat trang
Những phi hành gia đã hạ cánh thành công và đi bộ trên Mặt Trăng. Ảnh: NASA




Dù nhiều người từng bay vào không gian, rất ít người từng đặt chân lên Mặt Trăng. Vệ tinh tự nhiên của Trái Đất nằm ở khoảng cách 370.000 km, tương đối ngắn về mặt vũ trụ. Hai người đầu tiên đi trên Mặt Trăng là Neil Armstrong và Buzz Aldrin vào ngày 20/7/1969 trong nhiệm vụ Apollo 11. Tiếp bước họ, 10 phi hành gia khác đã di chuyển trên bề mặt Mặt Trăng trong những nhiệm vụ khác nhau thuộc chương trình Apollo, theo IFL Science.



Apollo 12

Chỉ 4 tháng sau Apollo 11, nhiệm vụ tiếp theo hạ cánh trên Mặt Trăng ở vùng Oceanus Procellarum (Ocean of Storms). Charles "Pete" Conrad và Alan Bean tiếp đất trên bề mặt Mặt Trăng vào ngày 19/11/1969. Nhiệm vụ hạ cánh trong phạm vi di chuyển của tàu vũ trụ tự động Surveyor 3. Conrad và Bean đã đưa các bộ phận của Surveyor 3 trở lại Trái Đất. Apollo 12 cũng là nhiệm vụ đầu tiên sử dụng võng trên thiên thể khác bởi hai phi hành gia muốn ngủ thoải mái hơn.

Apollo 14

Nhiệm vụ Apollo 13 gặp trục trặc nghiêm trọng trên đường đến Mặt Trăng và buộc phải hoãn hạ cánh. Lần thứ 3 con người đặt chân lên vệ tinh tự nhiên của Trái Đất rơi vào ngày 5/2/1971. Alan Shepard (người Mỹ đầu tiên bay vào không gian) và Edgar Mitchell trở thành người thứ 5 và 6 đi trên Mặt Trăng. Tàu Apollo 14 cũng gặp một số trục trặc nhưng không có gì quá nghiêm trọng. Sự kiện nổi tiếng nhất trong nhiệm vụ là Shepard đánh hai quả bóng golf. Ông cũng là người lớn tuổi nhất đặt chân lên Mặt Trăng (47 tuổi).

Apollo 15

David Scott và James Irwin hạ cánh xuống Mặt Trăng vào ngày 20/7/1971. NASA muốn cắt giảm ngân sách, vì vậy có nhiều thay đổi với nhiệm vụ để tận dụng tối đa tài nguyên, bao gồm lần đầu sử dụng Phương tiện tự hành Mặt Trăng, cỗ xe đầu tiên mà con người lái ngoài Trái Đất. Scott thực hiện thí nghiệm Galileo nổi tiếng chứng minh các vật thể rơi xuống mặt đất với cùng gia tốc bất kể khối lượng. Ông làm vậy bằng cách thả rơi một chiếc lông và một chiếc búa.

Nhiệm vụ cũng ghi hình Alfred Worden, người không hạ cánh trên Mặt Trăng nhưng thực hiện hoạt động ngoài phương tiện (EVA) nhằm thu thập băng ghi hình từ hai camera lập bản đồ Mặt Trăng bên ngoài module khi module ở cách Trái Đất 321.869 km. Nhiệm vụ này giữ kỷ lục về số lượng người lớn nhất tiếp xúc với chân không vũ trụ cùng lúc cho tới khi chuyến đi bộ không gian tư nhân của nhiệm vụ Polaris Dawn diễn ra từ trước đó một tháng.

Apollo 16

John Young và Charles Duke hạ cánh trên Mặt Trăng vào ngày 21/4/1972. Cặp đôi trải qua gần 3 ngày trên Mặt Trăng, thu thập vật chất bao gồm Big Muley, viên đá lớn nhất từng mang về từ thiên thể này bởi tàu Apollo. Viên đá nặng 11,7 kg. Tàu đổ bộ Mặt Trăng được gọi là Orion theo tên một trong những chòm sao sáng nhất trên bầu trời. Phi công Thomas Mattingly thay vào đó chọn tên Casper cho module chỉ huy và dịch vụ bởi "có quá nhiều thứ nghiêm túc trong chuyến bay này, vì vậy tôi quyết định chọn một cái tên hài hước", ông nói.

Apollo 17

Eugene Cernan và Harrison Schmitt là những phi hành gia cuối cùng từng bước đi trên Mặt Trăng tính đến nay. Họ hạ cánh vào ngày 11/12/1972. Apollo 17 là nhiệm vụ hạ cánh trên Mặt Trăng có người lái dài nhất, trong đó phi hành gia đi xa khỏi tàu vũ trụ nhất, trải qua thời gian lâu nhất trên Mặt Trăng cả trong và ngoài tàu vũ trụ, mang mẫu đá Mặt Trăng lớn nhất về Trái Đất. Nhà khoa học Schmitt cũng là người đầu tiên dị ứng với bụi Mặt Trăng.


An Khang 
(Theo IFL Science/Space)
https://vnexpress.net/co-bao-nhieu-nguoi-tung-di-bo-tren-mat-trang-4809463.html

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 136474)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 18581)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
01/11/2017(Xem: 10453)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 23158)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
19/08/2017(Xem: 7446)
GẶP GỞ VỚI KHOA HỌC Nguyên bản: Encounter with Science (the Universe in a Single Atom) Tác giả: Đức Đat Lai Lạt Ma Chuyển ngữ: Tuệ Uyển Tôi được sinh ra trong một gia đình nông dân giản dị, những người dùng trâu bò kéo cày, và khi lúa mạch được thu hoạch, họ lại dùng trâu bò đạp và xay lúa. Có lẻ những đối tượng duy nhất có thể được diễn tả như kỷ thuật trên thế giới trong thời thơ ấu của tôi là các cây súng trường của những người lính du mục địa phương, chắc chắn là đã mua từ Ấn Độ, Nga, hay Trung Hoa.
25/04/2017(Xem: 9604)
Đức Phật đôi khi có đề cập tới tính chất và các thành phần của vũ trụ. Theo Ngài, có nhiều hình thức đời sống hiện hữu ở các nơi khác trong vũ trụ. Với đà tiến bộ nhanh chóng của khoa học ngày nay, có lẽ không bao lâu nữa chúng ta sẽ khám phá ra các loài sinh vật khác đang sống ở các hành tinh xa nhất trong dãi thiên hà của chúng ta. Có thể các chúng sanh nầy sống trong những điều kiện và qui luật vật chất khác, hay giống như chúng ta. Họ có thể hoàn toàn khác chúng ta về hình thể, thành phần và cấu tạo hoá học
23/03/2017(Xem: 11066)
Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : Núi cao, thác ghềnh, quán cà phê, phòng làm việc, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa,
20/03/2017(Xem: 12468)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
20/03/2017(Xem: 8508)
Nhân dịp đức Phật về Thành Ca Tỳ La Vệ giáo hóa hay tin công chúa Da Du Đà La mới bảo con mình đến gặp Phật xin chia gia tài, Phật mới nói rằng ta bây giờ không còn nắm giữ tài sản thế gian, chỉ có tài sản của bậc Thánh, nếu con muốn ta sẽ chia cho con? La Hầu La nghe Phật nói liền chấp nhận và sau đó phát tâm xuất gia tu theo Phật. Các bạn biết gia tài tâm linh đó là gì không? Này các bạn, đức Phật của chúng ta trước khi đi tu vẫn có vợ có con, sau khi thành đạo dưới cội Bồ đề thấu rõ mọi nguyên lý sai biệt như phải quấy, tốt xấu, nên hư, thành bại trong cuộc đời đều do chính mình tạo lấy, sau đó Phật mới trở về tiếp chúng độ sinh. Bảy thứ gia tài Thánh nếu chúng ta biết ứng dụng vào trong đời sống hằng ngày, thì chúng ta sẽ giàu có và tràn đầy hạnh phúc, không một ai có thể cướp đi được. Đức Phật của chúng ta đã thừa hưởng gia tài đó, nên đã không còn luyến tiếc cung vàng điện ngọc, vợ đẹp con ngoan, và thần dân thiên hạ.
20/03/2017(Xem: 9891)
Sau khi nhịp đập của con tim bị ngừng lại và cùng lúc 5 giác quan của toàn thân con người không còn biết cảm giác, gọi là Chết. Nhưng thức A-lại-da bên trong vẫn còn hằng chuyển liên tục và hoạt động một mình. Sự hoạt động đơn phương của nó y như lúc con người còn sống đang ngủ say.Thức A-lại-da hoạt động một mình, không có 5 giác quan của cơ thể bên ngoài cộng tác
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]