Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phát Bồ Đề Tâm

22/08/201909:25(Xem: 10843)
Phát Bồ Đề Tâm

Lớp Học Hàm Thụ cho Trại Sinh A Dục
 Gia Đình Phật Tử Úc Đại Lợi


Phát Bồ Đề Tâm

Soạn và giảng: TT Thích Nguyên Tạng
Chủ Nhật: 04/08/2019 từ 7pm đến 9.30pm



I/Giới thiệu:
Bồ đề tâm là tâm giác ngộ, phát Bồ đề tâm là hướng tâm của mình giác ngộ và giải thoát với mục tiêu tối hậu “ Thượng cầu Phật Đạo, hạ hóa chúng sanh

 

II. Định nghĩa:
Bồ đề tâm, tiếng Phạn gọi là Bodhicitta, còn được gọi là Giác tâm, là tâm hướng đến giác ngộ, tâm an trú trong giác ngộ, tâm của sự giác ngộ.

Chữ Phát có nhiều nghĩa như phát sinh, phát khởi, phát hiện, phát triển, phát minh. Phát Bồ đề tâm là phát khởi cái chí nguyện mong cầu đạt đến Vô thượng Bồ đề.

Phát Bồ đề tâm là đặt ra mục tiêu tối hậu ngay từ lúc khởi đầu là hướng tâm đến lộ trình tu tập giải thoát và giác ngộ.

 

III. Nội dung:


Theo Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm của Đại Sư Thật Hiền (1685- 1734) đời nhà Thanh Trung Hoa (theo Tục Tạng tập 109 trang 321) thì sắc thái tâm nguyện có tám, đó là  Tà và Chánh, Chân và Ngụy, Đại và Tiểu, Viên và Thiên.

1/ TÀ:  người tu hành mà chỉ tu một chiều, không cứu xét tự tâm, chỉ lo những việc ở ngoài, hoặc vụ lợi, hoặc háo danh, hoặc ham cái thú hiện tại, hoặc cầu cái vui mai sau: phát tâm như vậy gọi là Tà.

2/ CHÁNH: Danh lợi không ham, vui thú không màng, chỉ vì thoát sinh tử, vì chứng Bồ đề: phát tâm như vậy gọi là Chánh.

3/CHÂN: Ý niệm này nối tiếp ý niệm khác, ngước lên mà mong cầu Phật đạo, tư tưởng trước liên tục tư tưởng sau, nhìn xuống mà hóa độ chúng sanh, nghe Phật đạo lâu xa cũng không thoái chí khiếp sợ, xét chúng sanh khó độ mà không chán nản mệt mỏi, như trèo núi cao cả vạn trượng cũng quyết tận đỉnh, như lên tháp lớn đến chín tầng cũng cố tột nóc: phát tâm như vậy gọi là Chân.

4/ NGỤY: Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong bẩn ngoài sạch, trước siêng sau nhác, tâm tốt dẫu có cũng phần lớn bị danh lợi xen lấn, thiện pháp dẫu tu cũng phần nhiều bị vọng nghiệp nhuốm bẩn: phát tâm như vậy gọi là Ngụy.

5/ĐẠI: Chúng sanh độ hết nguyện ta mới hết, Bồ đề đạo thành nguyện ta mới thành: phát tâm như vậy gọi là Đại.

6/ TIỂU:  Xem ba cõi như lao ngục, nhìn sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ, không dám độ người: phát tâm như vậy gọi là Tiểu.

7/ THIÊN: Nếu ngoài tâm thấy có chúng sanh, có Phật đạo (ngoài tự tánh), rồi nguyện độ, nguyện thành, công phu không xả, thấy biết không tan (dứt sạch): phát tâm như vậy gọi là Thiên.

Thấy chúng sanh và Phật đạo ở ngoài tự tánh, rồi nguyện độ nguyện thành, đường công hạnh chẳng quên, sự thấy hiểu không dứt, phát tâm như thế gọi là thiên.
 8/ VIÊN: Nếu biết tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát, tự tánh là Phật đạo nên nguyện thành tựu, không thấy một pháp nào ngoài tâm mà có, đem cái tâm vô tướng phát cái nguyện vô tướng, làm cái hạnh vô tướng, chứng cái quả vô tướng, cái tướng vô tướng cũng không thấy có được: phát tâm như vậy gọi là Viên.

Sau khi Phật tử đã biết 8 sắc thái lập tâm nguyện Bồ đề rồi, ta hãy loại 4 tâm: Tà, Ngụy, Tiểu và Thiên, ta chỉ chọn 4 tâm: Chánh, Chân, Đại và Viên. Có vậy mới gọi là Phát Bồ Đề Tâm.

 

IV. HÀNH TRÌ BỒ ĐỀ TÂM:

Hành giả muốn thành tựu Bồ đề tâm, phải hành trì đủ 10 điều sau:


1. Nhớ ơn nặng của Chư Phật: Mười phương ba đời chư Phật xót thương chúng sanh ngu muội mê lầm mà thị hiện thiên bách ức hóa thân, sử dụng vô lượng phương tiện để khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Công đức ấy cao dầy nói sao cho hết.
2. Nhớ ơn Cha Mẹ: Nhẩm tính cho đến hôm nay ta được thân người, nghĩa là đã trải vô lượng kiếp rồi. Cha mẹ nhiều đời lao nhọc, nay đã trụ ở phương sở nào, làm sao trả được công đức sâu dày, ngoài cách thường hành Phật pháp, độ khắp chúng sanh.
3. Nhớ ơn Sư Trưởng: Nay ta hiểu biết, rõ thấu đạo Bồ đề ấy cũng nhờ Sư trưởng khai tâm mở trí cho ta. Nay phải phát tâm Bồ đề độ khắp chúng sanh, trong đó có sư trưởng. Đó là cách đền ơn thân mật vi diệu.
4. Nhớ ơn Thí Chủ: Đàn na thí chủ mười phương tin tưởng hộ trì mà Phật pháp có phương tiện hành trì, phát đạt thấm đượm đến mình.
5. Nhớ ơn Chúng Sanh: Ta và chúng sanh đòi hỏi đắp bồi làm cha mẹ, vợ con, anh em thân bằng của nhau, vì thế mà nay ta quyết nhớ ơn, không khởi tâm loạn động, nghĩ đến sự xấu ác ngăn ngại.
6. Nhớ khổ sanh tử: Sanh tử là cửa lên xuống vào ra của ta trong sáu đường ba cõi, đau khổ khôn cùng nên nay không dám dải đãi, phải phát tâm bồ đề.
7. Tôn trọng Phật tánh của mình: Ta phải tin vào khả năng thành Phật của mình, phải sanh tâm hổ thẹn. Chư Phật và  ta vốn đồng bản thể, ấy vậy mà ta đã bao đời trầm luân để quý Ngài phải lao nhọc bôn ba hóa độ.
8. Sám hối nghiệp chướng: Đã nhiều kiếp vô minh che lấp, nay được duyên lành gặp được thiện trí, quyết tu hành hồi hướng công đức này cho khắp chúng sanh để tiêu trừ nghiệp chướng, nhất là tâm phát lồ sám hối.
9. Cầu sanh Tịnh Độ: Chỉ có Tịnh độ là hội đủ thắng duyên, đã trút gánh nặng tử sanh, nên cầu về đó để tiếp nối tiến trình tu chứng.
10. Phải đóng góp công sức giúp Phật Pháp tồn tại lâu dài: Phật đã vì lòng bi xót thương chúng sanh, đã trải qua muôn ngàn trăm ức kiếp tìm ra con đường giải thoát giác ngộ. Công đức ấy cao sâu không sánh nổi, ta không gia công hoằng hóa tài bồi còn đợi đến bao giờ.

 

V. KẾT LUẬN:

 Trong KINH ƯU BÀ TẮC GIỚI

Trong kinh Ưu Bà Tắc Giới có ghi rằng: Muốn tăng trưỡng hạt giống Bồ Đề thì nên làm 5 việc nầy:

(1)- Tự mình không nên tưởng điều khinh thường mà nói rằng mình chẳng được quả Chánh-đẳng Chánh-giác.

(2)- Tự mình chịu khổ mà tâm không chán nãn hối hận.

(3)- Tu hành tinh tấn không ngừng không nghỉ.

(4)- Cứu độ vô lượng khổ não của chúng sanh.

(5)- Thường xưng tán công đức nhiệm mầu của Tam Bảo

 

Hành giả cầu quả Bồ Đề nên làm 8 việc nầy:

(1)- Gần gủi bạn lành.

(2)- Giữ tâm kiên cố không hoại.

(3)- Làm đặng việc khó làm.

(4)- Thương xót chúng sanh.

(5)- Thấy người có lợi, sanh tâm vui mừng.

(6)- Thường ưa khen tặng công đức người khác.

(7)- Thường tu tập Pháp Lục Niệm : (không sát sanh, không tà dâm, không trộm cắp, không vọng ngữ, không uống rượu, không ăn sau giờ ngọ).

(8)- Thường hay giảng thuyết về chỗ lỗi lầm trong đường sanh tử.


Hành giả phải hun đúc chí nguyện, hoài bảo và hành trì miên mật, để Bồ đề tâm không thối chuyển, vì theo Kinh Hoa Nghiêm đã cảnh báo rằng “ Vong thất Bồ đề tâm, tu chư thiện pháp, thị danh ma nghiệp”, có nghĩa là: “Quên mất Bồ Đề Tâm mà tu các pháp lành, đó là ma nghiệp”.  Phát Bồ Đề Tâm có thể tóm tắt trong bài kệ Tứ Hoằng Thệ Nguyện mà chúng ta có thể trì tụng mỗi ngày :

 

“Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ

Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn

Pháp môn vô lượng thệ nguyện học

Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.”

Dịch nghĩa:

“Chúng sanh không số lượng

Thề nguyện đều độ khắp

Phiền não không cùng tận

Thề nguyện đều dứt sạch

Pháp môn không kể xiết

Thề nguyện đều tu học

Phật đạo không gì hơn

Thề nguyện được viên thành “.

 

Câu Hỏi Trắc Nghiệm
Lớp Giáo Lý Trại A Dục:
PHÁT BỒ ĐỀ TÂM

do TT Thích Nguyên Tạng
giảng tối Chủ Nhật 4-8-2019


*Xin quý anh chị chọn câu trả lời và khoanh tròn phần đúng nhất:

 

1/Phát Bồ Đề Tâm là:
a.Phát khởi kế hoạch cắm trại cho tổ chức GĐPT với chủ đề trại “Bồ Đề Tâm”
b.P
hát khởi chí nguyện mong cầu đạt đến Giác Ngộ và Giải Thoát
c.Phát khởi chí nguyện tu tập để vãng sanh về cõi trời Đạo Lợi

2. Bồ Đề Tâm còn gọi là:
a. Bodhisutta / Empty-mind
b. Bodhisatratta /Peaceful-mind
c. Bodhicitta / Enlightenment-mind

3. Văn Khuyến Phát Bồ Đề Tâm được biên soạn bởi:
a. Đại Sư Thật Hiền (1685-1734)
b. Đại Sư Thích Thiện Hoa (1918-1973)
c. Bác Sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám (1897-1969)

4. Tám sắc thái của Tâm là: 
a. Tà và Chánh, Hư và Ngụy, Trung và Tiểu, Viên và Tròn
b. Tà và Chánh, Chân và Như, Đại và Không, Viên và Thành.
c. Tà và Chánh, Chân và Ngụy, Đại và Tiểu, Viên và Thiên.

5. Lời Phật cảnh báo “Quên mất Bồ Đề Tâm mà tu các pháp lành, đó là ma nghiệp” được Ngài nói trong Kinh:
a. Kinh Pháp Hoa
b. Kinh Hoa Nghiêm
c. Kinh Di Đà





Phat thuyet phap 4

Giáo Trình hướng dẫn Gia Đình Phật Tử

Phát Bồ Đề Tâm

I. TIỂU DẪN:
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành.
Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.

GIỚI THIỆU XUẤT XỨ
PHÁP MÔN PHÁT BỒ ĐỀ TÂM.
Trong kinh Đại Phương Tiện ghi lại rằng: Sau khi Ngài A Nan bị Ni Kiền Tử vấn nạn: “Cù Đàm, bổn sư của Ngài là kẻ bất đứùc, vì mới sanh ra mẹ đã mất, vợ là kẻ hiền thục mà từ bỏ đi tu là bất nghĩa, vợ hiền con ngoan mà đem cho kẻ khác mặc tình sử dụng là bất nhân. Không tiếp nối giữ gìn Vương nghiệp mà Tịnh Phạn Vương một đời nhân đức tạo dựng, dân chúng an cư, đất nước phú cường là bất trung. Là con một mà bỏ cha để cha rầu buồn là bất hiếu. Tôn kẻ bất đức, bất nghĩa, bất nhân, bất trung, bất hiếu làm thầy là vô trí”.
Ngài A Nan buồn rầu trở về gặp Phật. Phật đã ân cần giải nghi cho Ngài. Ngài sung sướng bạch Phật nên thương xót chỉ cho Ngài và đại chúng pháp môn dễ tu dễ chứng nhất để hạ thủ tu trì. Phật dạy pháp môn thù thắng nhất, Phật tử nên hạ thủ, đó là phải biết tri ân và báo ân.
Sau một lúc suy nghĩ, A Nan bạch tiếp: “Pháp môn này nghe thì dễ nhưng ân đã thọ thì vô biên, thứ lớp hạ thủ khó sâu, xin Phật chỉ rõ cho cách thức hạ thủ”. Phật khen ông khéo nói và bảo rằng: “Cách tri ân, báo ân thù thắng nhất là tự mình phát Bồ đề Tâm và khuyến khích kẻ khác cùng phát tâm Bồ đề như vậy”.

II. ĐỊNH NGHĨA:
Phát là mở ra, khởi lên hoặc dựng nên, Bồ đề là giác ngộ, là thấy biết tự tánh thanh tịnh bất nhiễm, là bản lai diện mục của chính mình.
Chữ Tâm có rất nhiều nghĩa. Thế tục hiểu đó là trái tim, là tấm lòng, còn nghĩa đầy đủ của Phật là Thiên Thủ Thiên Nhãn Vô Ngại Đại Bi Tâm, cái Tâm có công năng thấy biết chân thật tánh tướng của vạn pháp, rõ thấu đường lối dắt dìu chúng sanh ra khỏi khổ đau phiền não, thắng vượt mọi khó khăn chướng ngại của nghiệp duyên khổ đau và tử sanh.
Phát Bồ Đề Tâm là đứng ở địa vị chúng sanh, y nương theo pháp bảo, vạch con đường đi đến Phật quả, đạt được cái tâm nguyện Bồ đề như đã nêu trên, nên gọi là Phát Bồ đề tâm.

III. NỘI DUNG:
Theo Tục Tạng tập 109 trang 321 thì sắc thái tâm nguyện có tám đó là Chánh, Tà, Chân, Ngụy, Đại, Tiểu, Viên, Thiên.
1. Chánh: Danh lợi không ham, vui thú không màng, chỉ mong ra khỏi luân hồi, chứng đạt Bồ đề quả vị, phát tâm như vậy gọi là Chánh.
2. Tà: Phát tâm tu hành mà mưu cầu danh tiếng lợi lạc, ham cái thú hiện tại hoặc cầu cái vui tương lai, phát tâm như vậy gọi là Tà.
3. Chân: Chỉ một lòng một dạ, ngước lên thì cầu Phật đạo, nhìn xuống chỉ mong hóa độ chúng sanh, dù cho gian khổ nghịch cảnh chướng duyên, lòng không chán mỏi thối chuyển. Phát tâm như vậy gọi là Chân.
4. Ngụy: Có tội không sám, có lỗi không cải, thiện pháp dẫu tu, vọng nghiệp khó dứt. Tâm từ dẫu có mà danh lợi vẫn thắng. Phát tâm như vậy gọi là Ngụy.
5. Đại: Chúng sanh đặng quả vô sanh an lạc, nguyện ta mới dứt. Tất cả đều đắc đạo Vô thượng, nguyện ta mới thành. Phát tâm như vậy gọi là Đại.
6. Tiểu: Coi 3 cõi như lao ngục, xem sanh tử như oan gia, chỉ mong tự độ không dám độ tha. Phát tâm như vậy gọi là Tiểu.
7. Viên: Nếu biết tự tánh là chúng sanh nên nguyện độ thoát, Tự tánh là Phật nên nguyện thành, đem cái tâm vô tướng, phát cái nguyện vô tướng, chứng cái quả vô tướng, cái tướng vô tướng cũng không thấy còn. Phát tâm như vậy gọi là Viên.
8. Thiên: Nếu ngoài tâm thấy có chúng sanh có Phật đạo rồi nguyện độ nguyện thành, công phu không xả, thấy biết không tan. Phát tâm như vậy gọi là Thiên.
Sau khi Phật tử đã biết 8 sắc thái lập tâm nguyện Bồ đề rồi, ta chỉ chọn 4 sắc thái đó là: Chánh, Chân, Đại, Viên. Có vậy mới gọi là Phát Bồ Đề Tâm.

IV. NGUYÊN DO NÀO PHẬT TỬ PHÁT BỒ ĐỀ TÂM:
Như phần II đã ghi, điều cần và đủ, mà người Phật tử phải nên làm là tinh thần Biết ơn và trả ơn. Mười lý do sau đây nói lên được cái ý nghĩa tha thiết đó:
1. Nhớ ơn Phật rất nặng: Mười phương ba đời chư Phật xót thương chúng sanh ngu muội mê lầm mà thị hiện thiên bách ức hóa thân, sử dụng vô lượng phương tiện để khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Công đức ấy cao dầy nói sao cho hết.
2. Nhớ ơn cha mẹ: Nhẩm tính cho đến hôm nay ta được thân người, nghĩa là đã trải vô lượng kiếp rồi. Cha mẹ nhiều đời lao nhọc, nay đã trụ ở phương sở nào, làm sao trả được công đức sâu dày, ngoài cách thường hành Phật pháp, độ khắp chúng sanh.
3. Nhớ ơn Sư trưởng: Nay ta hiểu biết, rõ thấu đạo Bồ đề ấy cũng nhờ Sư trưởng khai tâm mở trí cho ta. Nay phải phát tâm Bồ đề độ khắp chúng sanh, trong đó có sư trưởng. Đó là cách đền ơn thân mật vi diệu.
4. Nhớ ơn thí chủ: Đàn na thí chủ mười phương tin tưởng hộ trì mà Phật pháp có phương tiện hành trì, phát đạt thấm đượm đến mình.
5. Nhớ ơn chúng sanh: Ta và chúng sanh đòi hỏi đắp bồi làm cha mẹ, vợ con, anh em thân bằng của nhau, vì thế mà nay ta quyết nhớ ơn, không khởi tâm loạn động, nghĩ đến sự xấu ác ngăn ngại.
6. Nhớ khổ sanh tử: Sanh tử là cửa lên xuống vào ra của ta trong sáu đường ba cõi, đau khổ khôn cùng nên nay không dám dải đãi, phải phát tâm bồ đề.
7. Trọng tánh linh Phật của mình: Ta phải tin vào khả năng thành Phật của mình, phải sanh tâm hổ thẹn. Chư Phật và  ta vốn đồng bản thể, ấy vậy mà ta đã bao đời trầm luân để quý Ngài phải lao nhọc bôn ba hóa độ.
8. Sám hối nghiệp chướng: Đã nhiều kiếp vô minh che lấp, nay được duyên lành gặp được thiện trí, quyết tu hành hồi hướng công đức này cho khắp chúng sanh để tiêu trừ nghiệp chướng, nhất là tâm phát lồ sám hối.
9. Cầu sanh Tịnh Độ: Chỉ có Tịnh độ là hội đủ thắng duyên, đã trút gánh nặng tử sanh, nên cầu đến để tiếp nối tiến trình tu chứng.
10. Làm cho Phật giáo tồn tại lâu dài: Phật đã vì lòng bi xót thương chúng sanh, đã trải qua muôn ngàn trăm ức kiếp tìm ra con đường giải thoát giác ngộ. Công đức ấy cao sâu không sánh nổi, ta không gia công hoằng hóa tài bồi còn đợi đến bao giờ.


V. KẾT LUẬN:

Để hun đúc chí hướng, hâm nóng tâm can, ý nguyện và hành động không được sao nhãng thoái tâm, người Phật tử chúng ta phải phát lập tâm nguyện Bồ đề. Đó là cách xác lập chí hướng tâm nguyện thù thắng.

 
***


English Vesion by Hoa Chí


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
17/01/2012(Xem: 7463)
Vô tận trong lòng bàn tay, Sự dị biệt giữa tôn giáo và khoa học được đánh dấu khởi đầu từ luận đề của Galilée và từ đó đã khiến nhiều người cho là hai thế giới này không thể nào gặp nhau được. Einstein khi đối chiếu Phật Giáo với các tôn giáo khác đã cho là: nếu có một tôn giáo có thể đáp ứng được những nhu cầu đòi hỏi của khoa học, thì chính đó là Phật giáo. Einstein muốn nói tới tính cách thuần lý và thực tiển của Phật Giáo, khi ông so sánh thấy các tôn giáo khác chỉ dựa trên kinh điển và giáo điều. Đúng như điều Einstein cảm nhận, Ph
15/01/2012(Xem: 4711)
Theo Phân tâm học, tâm của con người chia làm hailà ý thức và vô thức. Duy thức học thì phân làm tám và ý thức là một trong támphần đó. Như vậy, nhìn theo quan điểm nào thì ý thức cũng chỉ là một phần củatâm. Tuy vậy, ý thức rất năng động và có phạm vi hoạt động rất lớn... Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có hai phần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quan mắt, tai… mà ta có thể nhận biết.
15/01/2012(Xem: 5317)
Từ một tình trạng không có gì, phi thời gian không gian, không cần một nguyên nhân ngoại lai, có một sự bùng nổ, phát ra năng lượng và vật chất. Đó là hiệu ứng được mệnh danh là “hiệu ứng lượng tử”, xuất phát từ sự tăng giảm không đều của năng lượng. Nói tóm gọn, vũ trụ là kết quả của một sự sáng tạo mà không có người sáng tạo.
07/01/2012(Xem: 6307)
Chúng ta hãy đừng lừa dối chính mình, điều này tưởng chừng như không khó khăn nhưng thật sự đó là điều khó nhất trong tất cả các trạng thái mà chúng ta có thể đạt được. Bằng cách "Không lừa dối chính mình", nghĩa là tôi muốn nói chúng ta hãy ngưng vẽ một bức tranh của thế giới ngày nay bằng những sai lầm với các màu sắc khoái lạc, vì tiện nghi và an toàn cho riêng mình. Chúng ta, toàn thế giới, phải đương đầu với sự sai lầm này, thật là tệ. Chúng ta phải thật sự lưu tâm đến hoàn cảnh của chúng ta đang sống. Chúng ta cần phải truy nguyên tận căn để của tất cả các mối nghi ngờ và hiểu lầm của mình, và chúng ta có thể bắt đầu như thế nào để loại trừ nó một cách tốt nhất. Và chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng, nếu chúng ta không thực hiện điều này, chúng ta phải đối đầu với các trở ngại đó.
02/01/2012(Xem: 2769)
Với tư cách một nhà vật lý thiên văn học nghiên cứu sự hình thành và tiến hóa của những thiên hà, công việc làm tôi không ngừng tự vấn về những khái niệm về thực tại, vật chất, thời gian và không gian. Là một người Việt lớn lên trong truyền thống đạo Bụt, tôi không thể không tự hỏi đạo Bụt chú ý tới những khái niệm này như thế nào. Thế nhưng, lập luận dựa vào việc đối chiếu khoa học và đạo Bụt chưa chắc sẽ có ý nghĩa. Nhất là ở phương diện thực tập của đạo Bụt, con đường giúp đạt tới sự hiểu biết về cái ngã, phát triển tâm linh hoặc trở thành một con người tốt đẹp hơn.
30/12/2011(Xem: 5922)
Trên đời này có hai thứ cao quý nhất đó là bảy thứ: vàng, bạc, ngọc lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não còn được gọi là thất bảo và phật pháp tăng. Các thứ cao quý ấy được xuất phát từ thế gian. Các loại ngọc và vàng bạc được có trong lòng đất với thời gian cả ngàn năm, tỷ năm do môi trường của đất tạo nên. Các thứ ngọc gọi là đá quý, còn vàng bạc gọi là kim loại quý.
25/10/2011(Xem: 6750)
Thái độ của Phật giáo liên quan đến sự hòa điệu phi thường này như thế nào? Phật giáo có chấp nhận ý niệm có một Đấng Sáng Tạo toàn tri hay là một nguyên lý sáng tạo có khả năng điều chỉnh sự tiến triển của vũ trụ một cách tuyệt vời? Hay Phật giáo cho rằng sự hòa điệu chính xác và tuyệt vời của vũ trụ chẳng qua chỉ là một tình cờ may mắn? Vấn đề có hay không một Đấng Sáng Tạo?
15/10/2011(Xem: 4248)
Trong Phật giáo có những phương pháp dùng để thực hành Thiền từ bi. Các thiền giả nhằm khích động lòng từ bi đối với tất cả chúng sinh...
13/10/2011(Xem: 5339)
Nhiều người nói thực hành thiền Chánh Niệm tốt cho não bộ, nhưng ai có thể chứng minh được điều này? Một vị sư Phật giáo, Thiền sư, Triết gia, và trước đây là một khoa học gia, Matthieu Ricard tham dự án nghiên cứu cho thực tập Thiền có ảnh hưởng tích cực cho não bộ. Ông tình nguyện làm một đối tượng nghiên cứu trong phòng thí nghiệm trong những cuộc nghiên cứu quan trọng về Thiền và Não Bộ và ít có người ở trong một vị thế đặc biệt như ông để mô tả cuộc gặp gỡ giữa khoa học và Thiền quán.
08/10/2011(Xem: 2949)
Khái niệm Ông Trời đã có từ lâu trong kho tàng văn chương dân gian Việt, nhưng hình ảnh Ông Trời không hề mang ý nghĩa một đấng sáng tạo vũ trụ, mà chỉ là một chúng sinh, một người rất người trên cõi trời.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567