Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

27. Tuyệt Vọng

04/01/201909:14(Xem: 15542)
27. Tuyệt Vọng

Tuyệt Vọng

(giọng đọc Hữu Châu)

 

Hy vọng có thể dễ dàng trở thành thất vọng, nhưng từ thất vọng đến tuyệt vọng là một khoảng cách rất lớn.

 

 

 

Lạc mất cái tôi

 

Sống trong đời sống thì phải có hy vọng. Tin vào ngày mai tốt đẹp hơn là phương cách rất cần thiết để cứu rỗi linh hồn ta vượt qua những cơn đau hụt hẫng, hay trước thực tại quá cay đắng, phũ phàng. Nhưng nếu ta đổ dồn hết năng lượng về một phía, cũng như ta đem hết tài sản của mình ra để đánh một canh bạc sau cùng, mà lỡ canh bạc ấy thất bại thì cuộc đời ta kể như không còn gì nữa để sống. Thật không có gì lạc lõng cho bằng khi ta không còn biết tin tưởng vào đâu. Đúng hơn là trái tim ta không đủ sức chứa đựng cảm xúc hụt hẫng quá lớn mà trước nay nó chưa từng xảy ra với ta, hay ta chưa hề chuẩn bị trước. Cái tôi vì không còn chỗ bám nên nó rơi vào khoảng trống chơi vơi, lạc lõng mà không định dạng được chính mình và mọi thứ xung quanh.

 

Khi tuyệt vọng, tâm trở nên lu mờ hơn bao giờ hết. Ta nhìn mọi thứ bằng con mắt bi quan, chán chường, có cảm tưởng như trên đời này không còn điều gì ý nghĩa và đáng tin tưởng nữa. Nhưng sự thật là đất trời vẫn đang ôm ấp ta, những người thân yêu vẫn luôn bảo bọc ta, những điều kiện thuận lợi vẫn đang tồn tại quanh ta. Chỉ vì tâm ta đang bị vướng kẹt vào một đối tượng hấp dẫn nào đó và vô tình tự đồng hóa cả đời sống của mình với đối tượng ấy. Nghĩa là trong khi đặt niềm tin vào ai đó, ta đã dễ dãi dồn hết năng lượng của mình về phía đối tượng ấy. Lối tin tưởng này đã khiến ta tự giới hạn hoặc chấm dứt sự liên kết cần thiết với những đối tượng xung quanh. Ta đã rơi vào thế mất cân đối ngay từ khi gửi niềm tin cho kẻ khác, nên lỡ đối tượng ấy tan biến thì đương nhiên ta cũng sụp đổ theo. Ta không còn chỗ để bám. Cái tôi dường như bị đánh cắp.

 

Ta quên rằng sự thất bại về danh vọng, tình yêu hay lý tưởng cũng chỉ là một phần của đời sống. Ta còn rất nhiều lý do để sống, để hy vọng. Hy vọng có thể dễ dàng trở thành thất vọng, nhưng từ thất vọng đến tuyệt vọng là một khoảng cách rất lớn. Không phải ai thất vọng cũng đều trở thành tuyệt vọng và không phải ai tuyệt vọng cũng đều chết chìm mãi trong khổ đau. Người có hiểu biết luôn xem thất bại là bài học kinh nghiệm để góp phần vươn tới thành công. Họ tin rằng những gì đã khổ công gầy dựng thì không bao giờ mất. Nó sẽ chuyển từ dạng này sang dạng khác, hoặc đang bảo lưu ở một dạng vô tướng nào đó để chờ đợi những yếu tố khác đến kết hợp. Nhờ có nội lực vững mạnh, nên họ luôn sẵn sàng chấp nhận tổn thất nặng nề mà không hề than van hay bỏ cuộc. Vì họ biết con người của mình vĩ đại hơn những gì chưa thể hiện được hoặc đã bị lấy đi. Điều quan trọng là họ chưa từng đem cuộc đời mình ra đặt cược hay rao bán.

 

 

 

Không biết đi về đâu

 

Thế nhưng, phần lớn mọi người khi rơi vào vực thẳm khổ đau tuyệt vọng đều muốn buông xuôi tất cả. Nếu ta có trong số đó thì hãy tự vấn mình: Thật ra ai đã khiến ta ra nông nổi này? Nếu ta đã xác định thủ phạm chính là người kia thì cũng nên tự hỏi thêm rằng: Người kia là ai mà có quyền thao túng cuộc đời ta dễ dàng như vậy? Họ chỉ có thể làm cho ta đau nhưng họ không có quyền làm cho ta khổ. Ta nên nhớ rằng thân mạng này không phải là của riêng ta nên ta không có quyền coi thường hay hủy hoại nó. Sự thật là cha mẹ, anh chị em, bạn bè, những bậc ân nhân và cả tổ tiên hay giống nòi cũng đều đang có mặt trong từng tế bào và hơi thở của ta. Họ đang cùng ta đi về tương lai. Ta ngã xuống thì họ cũng sẽ ngã theo. Tương lai ta ra sao thì một phần họ cũng sẽ trở thành như thế ấy.

 

Dẫu biết rằng, khi chọn đến cái chết là ta đã chịu khổ đau đến mức cùng cực rồi; trái tim của ta như sắp tan vỡ vì không thể chịu nổi niềm đau quá lớn đang đè xuống. Nhưng suy cho cùng thì ta vẫn đang làm một quyết định rất ích kỷ. Ta chỉ muốn tìm cách trốn thoát cơn bão cảm xúc đang đè nặng bản thân mà chính ta cũng có phần trách nhiệm lớn trong ấy. Ta cứ tưởng rằng mình là kẻ khổ đau nhất trên đời, nên mọi người cần phải tôn trọng và không có quyền trách giận mình. Đúng là không ai nỡ trách giận một kẻ đang khổ. Nhưng ta không có quyền làm cho những người thân yêu của ta khổ chỉ vì ta đã bị kẻ khác làm cho mình khổ. Và liệu ta có yên vui nơi thế giới xa lạ nào đó khi tâm hồn ta vẫn còn đầy rẫy những oán hận chưa nguôi và trách nhiệm làm người vẫn còn dang dở?


Không có cái tương lai nào tách lìa với hiện tại cả, hiện tại như thế nào thì tương lai cũng đồng tính chất như thế ấy. Khổ đau từ trái tim thì liệu pháp chữa trị cũng từ trái tim. Ta đừng tiếp tục truy cứu kẻ đã làm khổ mình để đòi hỏi, trừng phạt, hay tìm một nơi mà mình cho là bình yên tuyệt đối để lẩn tránh. Dù có làm được chuyện ấy thì vết thương trong ta cũng không thể nào lành lặn được. Cách đó chỉ làm thỏa mãn cơn cảm xúc nhất thời, bởi ta không bao giờ lấy lại đầy đủ tất cả những gì đã mất. Hãy bình tâm nhìn kỹ lại. Nhiều khi ta không thoát khỏi vực thẳm khổ đau không phải vì ta không đủ sức, mà có thể vì ta đang muốn tự giam mình trong tình trạng thê thảm ấy để kích động lương tâm của người kia như một kiểu trừng phạt. Hoặc có thể vì ta muốn chìm đắm trong cảm xúc quặn đau ấy để tự thương hại bản thân mình. Người ta thường gọi đó là "thú đau thương".

 

Khi rơi vào cảm xúc khổ đau quá lớn, một kẻ vừa yếu đuối vừa chỉ biết lo nghĩ cho bản thân thì thường lấy đau thương để gặm nhấm rồi than thân trách phận, chứ không tích cực tìm lối thoát. Họ thích nằm co ro như con tôm để nghe những bản nhạc tình sầu đứt ruột. Hoặc họ thích người khác tưới tẩm vào nỗi khổ niềm đau của mình, bằng cách công nhận mình là kẻ khổ đau nhất trên đời và rất đáng tội nghiệp, chứ không chịu cho ai kéo mình ra khỏi vực thẳm đen tối ấy. Đó cũng là một dạng trầm cảm - thích giam cảm xúc ở cung bậc thấp để thỏa mãn mặc cảm thua sút. Thật ra, trong sâu thẳm thì đó cũng là cách để loan báo cho mọi người biết về cái khổ đau mà ta đang gánh chịu, nhưng lại muốn được xót thương hơn là cứu giúp. Muốn giúp ta, phải có khả năng đưa ta trở về đúng vị trí căng đầy niềm hy vọng như ban đầu thì ta mới thấy tự tin. Còn không, thà cứ để ta như vậy.

 

 

 

Rác cũng là hoa

 

Trong bài hát Tôi ơi đừng tuyệt vọng, nhạc sĩ Trịnh Công Sơn đã đưa ra giải pháp chữa trị rất đúng: "Em hồn nhiên rồi em sẽ bình minh". Phải trải nghiệm nhiều lắm, phải đứng lên từ những khổ đau tuyệt vọng thì nhạc sĩ mới đúc kết được như thế. Trước đó, nhạc sĩ cũng đã khẳng định: "Em là tôi và tôi cũng là em". Em là tâm lý tuyệt vọng, là một biểu hiện nhất thời của cái tôi rộng lớn. Không thể cho rằng tuyệt vọng là toàn bộ con người của ta. Dù nó đang khống chế ta trong mọi suy tư và hành động, nhưng bản chất của nó vẫn là vô thường như mọi hiện tượng tâm lý khác. Sớm muộn gì nó cũng sẽ tan


biến thôi. Điều kỳ diệu là nhờ chuyến trôi dạt đến tận cùng miền đau khổ ấy mà ta khám phá ra được bản chất của mọi phiền não đều không có thật, và chúng cũng không hề có tên gọi gì cả. Chúng chỉ là những phản ứng chống trả nhất thời của cái tôi yếu đuối và còn thiếu hiểu biết về chính mình. Nhưng nhờ những phản ứng mạnh mẽ ấy, ta mới thấy rõ hết những yếu kém sâu sắc của mình mà kịp thời giúp đỡ và thay đổi cách sống. Có thể nói, nếu không có phiền não thì sẽ không bao giờ có sự giác ngộ; nếu không có em tuyệt vọng hôm qua thì sẽ không có tôi vững chãi hôm nay. Bởi em là tôi và tôi cũng chính là em.

 

Cũng giống như đem rác chuyển hóa thành phân hữu cơ để nuôi hoa, góp phần làm ra hoa. Hoa trở thành rác mà rác cũng có thể biến thành hoa. Thành ra, ranh giới giữa em tuyệt vọng và tôi cách nhau chỉ trong đường tơ sợi tóc. Khi lạc lõng thì em bé dễ hờn dễ khóc năm xưa trỗi dậy, nhưng chỉ cần sự tỉnh thức trở lại thì cái tôi vững chãi sẽ được gọi về. Ta muốn đời sống có bình minh, muốn vượt thoát cơn đau tuyệt vọng thì ta phải trở về làm mới tâm hồn mình, chứ đừng rượt đuổi theo kẻ khác để trừng phạt hay bám víu. Giải pháp hay nhất và duy nhất là phải "hồn nhiên" - sống được với con người chân thật vốn có của mình. Đó là con người chưa từng đón nhận những vai vế của cuộc đời, chưa từng biết che đậy hay trình diễn. Con người ấy nhìn đâu cũng bằng ánh mắt trong suốt như bé thơ, chứ không mang theo màu sắc pha tạp của những thành kiến và định kiến. Chỉ cần can đảm buông hết mọi tranh đấu, tạm thời lui về một không gian yên tĩnh và gần gũi với thiên nhiên, dành hết năng lực để chăm sóc lại từng dòng cảm xúc hay suy tư của mình, tiếp xúc thật sâu sắc với những gì đang hiện hữu bên mình bằng thái độ cởi mở và thương yêu thì em bé hồn nhiên sẽ từ từ hiện ra. Em bé ấy sẽ không còn thấy gì là tổn thương hay đau khổ nữa cả. Đó chính là tác phẩm hài hòa nhất của vũ trụ.

 

Ta hãy tin vào vô thường - mọi thứ rồi cũng sẽ đổi thay. Ta sẽ không còn tâm lý tuyệt vọng và người kia cũng sẽ không còn dại khờ mà làm cho ta khổ nữa. Bởi vì trong ta và người kia tuy có chất liệu rất "trần gian", nhưng cũng đôi khi lại thấy "yêu quá đời này".


 

 

Tạ ơn đời mầu nhiệm

Tạo duyên có rồi không

Hết không rồi lại có

Cho ngày mới đơm bông.
Đừng buồn nhìn xơ xác
Đời cần chút đổi thay
Hoa xưa rồi thắm lại
Vườn cũ ngát hương bay.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/02/2013(Xem: 5074)
Nói về nguồn gốc loài Người, một vấn đề liên quan tới nguồn gốc của chính Tổ-tiên xa xưa lâu đời của chúng ta; nó hết sức khó hiểu cho con người, đã có biết bao người suy nghĩ, nghiên cứu và lý luận để tìm câu trả lời. Ngày nay chúng ta đã có những thuyết trả lời khác nhau như sau:
23/02/2013(Xem: 5843)
Chúng ta cần ghi nhận một điểm thú vị là khi kiến thức khoa học về con người và vũ trụ càng gia tăng thì càng có nhiều bằng chứng được đưa ra để chứng minh giáo lý của Đức Phật là đúng. Phật giáo là con đường giải thoát do Đức Phật khám phá ra. Giáo lý đạo Phật được thể hiện qua Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Giải thoát bao hàm sự chấm dứt hoàn toàn vòng luân hồi sinh tử. Khoa học là việc nghiên cứu một cách khách quan những qui luật của tự nhiên để đưa ra những nhận định tổng quát và lời giải thích cho các hiện tượng đã được quan sát. Như nhà sinh lý học người Pháp Loeb đã nói :” Mục đích tối hậu của khoa học là để tiên đoán”.
21/01/2013(Xem: 5972)
Sự nhận thức quan trọng này gợi ý cho chúng ta rằng nếu có thể dạy cho trẻ em thực hành kỷ luật khi còn nhỏ, thì sẽ đem lại lợi ích cho bản thân các em khi trưởng thành và cho xã hội.
21/01/2013(Xem: 5770)
Tiến sĩ Thupten Jinpa chuyển vai trò thông dịch sang thuyết trình. Ông bắt đầu với lý thuyết Phật giáo thời kỳ sơ khởi về nguyên tử và đề cập đến các xu hướng giản hóa luận trong thời kỳ này. Ông cũng chỉ ra rằng không có bất kỳ quan điểm giản hóa luận nào của các nhà tư tưởng Phật giáo đã quy giản tâm thức về vật chất thuần túy. Nhà hiền triết Aryadeva, đệ tử của đạo sư Long Thọ, đã viết các tranh biện với các luận thuyết thời kỳ sơ khởi là ở trong khía cạnh các quan điểm về tính rời rạc và về lý nhân quả. Trong khuôn khổ của Hai Chân lý thì tất cả các trường phái tư tưởng Phật giáo đều đồng quan điểm về chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng nếu Cơ học Lượng tử được luận giải trong bối cảnh này, thì sẽ dễ dàng nắm bắt hơn.
20/01/2013(Xem: 5718)
Hội đàm Tâm thức và Đời sống (Mind and Life) lần thứ 25 về chủ đề “Tâm thức, Bộ não và Vật chất- các đàm luận giữa tư tưởng Phật giáo và Khoa học” diễn ra tại tự viện Drepung ở Mundgod, karnataka, Ấn Độ từ ngày 17 đến 22
31/12/2012(Xem: 6591)
Phật giáo hiện hữu trên đất nước Việt Nam, hơn 2000 năm đồng hành cùng dân tộc. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm của đất nước Phật giáo luôn làm tròn sứ mệnh của một tôn giáo gắn liền với nền văn hoá nước nhà. Chiến tranh đi qua, để lại bao đau thương mất mát, cảnh vật hoang tàn, đời sống nhân dân nghèo đói cơ hàn. Đến thời độc lập, ngoại xâm không cò n nữa, đất nước từng bước chuyển mình đi lên, Phật giáo cũng nhịp nhàn thay màu đổi sắc vươn lên, GHPGVN được ra đời vào ngày 07/11/1981 đến nay gần 22 năm với VI nhiệm kỳ hoạt động của giáo hội.
28/12/2012(Xem: 10257)
Trong bầu không khí trang nghiêm, hòa hợp, thắp sáng niềm tin vào nền giáo dục nhân bản Phật giáo của ngày Hội thảo Giáo dục Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VI (2007 -2012) của Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương với chuyên đề “Giáo dục Phật giáo Việt Nam định hướng và phát triển”, tôi xin phát biểu một số ý kiến chung quanh vấn đề Giáo dục Phật giáo như sau:
06/11/2012(Xem: 4473)
Điều đó khá rõ ràng, khi chúng ta thấy Đức Phật Ngài không hề tự nhận mình là một thần linh xuống thế để ban phúc giáng họa cho ai cả. Ngài xuất thân cũng chỉ là một chúng sinh bình thường như chúng ta. Nhưng nhờ công phu tu tập nhiều đời, nhiều kiếp, đến đời sống sau cùng Ngài đi nốt con đường Ngài đã chứng ngộ chân lý, khám phá ra tất cả những bí mật của vũ trụ và tìm ra được con đường vượt thoát khỏi sự ràng buộc đó.
22/10/2012(Xem: 4819)
Liệu cá có thể trải nghiệm cảm giác đau? Câu hỏi này nghe có vẻ lạ, nhưng nó vẫn chưa bao giờ được trả lời một cách hoàn chỉnh.
20/09/2012(Xem: 6249)
Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu. Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ. Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những khái niệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]