Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới

01/11/201420:09(Xem: 11226)
Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới

 

vu tru2Trong các kinh tạng, Phật nói nhiều về ‘tam thiên, đại thiên’ thế giới và đa số chúng ta thường hình dung rằng những thế giới này nằm bên ngoài trái đất, thế giới của các vị trời, thần… Vì chưa chứng được thần thông nên chúng tôi không thể nhìn thấy được những thiên giới đó!  Nhưng thật ra nếu quán chiếu cho sâu, chúng ta sẽ thấy rằng có những thế giới không đâu xa mà chính ngay bên trong cõi ta bà, nơi mình đang sống.  

 

Xin đơn cử một vài ví dụ về thế giới quanh ta:  thế giới đàn ông, thế giới đàn bà, thế giới đàn bà không chồng, có chồng, có một con hoặc nhiều con…thế giới người điên, người nổi tiếng, giàu sang…thế giới của các nhà chính trị, của thương mại, buôn bán… Đó chỉ là nói sơ về thế giới loài người.  Còn những thế giới của các loại động vật trên đất và dưới nước...  Khi xem những phim tài liệu về hình ảnh các loại động vật này, chúng ta mới có ý thức về thế giới của những sinh vật kia sống ra sao!  Cứ mỗi thế giới đều có những hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt khác nhau.  Thậm chí, tình cảm cũng khác biệt. 

Trong 4 thế giới của sinh, già, bệnh, và chết mà Phật thường nói đến, chúng ta sẽ khó có thể trải nghiệm hạnh phúc, an vui, nổi khổ, niềm đau thật sự cho đến khi chính bản thân mình phải sống trong thế giới đó.  Khi còn khỏe mạnh chúng ta ít có khi nào thấu hiểu được những người sống trong thế giới bệnh tật phải chịu khổ ra sao.  Cũng như khi còn trẻ, mình ít khi nào hiểu được tâm ý và khả năng của những người già. Thế giới của họ, tuy gần chúng ta trong gang tấc, nhưng đời sống của họ thật khác biệt. Tuy nhiên, may mắn thay ai rồi cũng sẽ có cơ hội để thử nghiệm!

vu tru3
Sống trong thế giới bị bao kín với những âu lo, toan tính khiến mình không thể thấy và hiểu rõ thêm.  Như khi đức Phật còn là thái tử bị vua cha giam lõng trong cung điện vàng son, hưởng thụ những thú vui dục lạc.  Hơn ai hết, nhà vua hiểu rõ chỉ có cách đó mới che mắt thái tử từ những thế giới bên ngoài cổng thành.  Như chúng ta biết khi ra khỏi cổng thành thái tử Sĩ Đạt Ta mới tận mắt chứng kiến những cảnh đời khác nhau khiến Ngài bắt đầu hiểu rõ về thân phận con người.  

 

Sống ở xứ Mỹ này chúng ta cũng trải nghiệm giống như đức Phật đã từng kinh nghiệm.  Chúng ta bị đóng kín trong khuôn khổ từ nhà đến sở làm và từ sở làm về nhà.  Hoặc khi đi mua sắm, chúng ta chỉ nhìn thấy và sống trong thế giới của người tiêu thụ, tiền bạc và danh lợi.  Hầu như ít khi nào chúng ta chứng kiến những cảnh đau khổ, bệnh tật.  Cách tổ chức khéo léo của chính phủ, giống như vua Tịnh Phan, người bệnh thì có bệnh viện, người già thì có viện dưỡng lão, người chết thì có nhà quàn... 

 

Thế giới nào đều được phân minh theo thế giới đó nên hiếm khi chúng ta có cơ hội để tìm hiểu. Cho nên khi nói đến cảm thông, thương yêu chúng ta bỗng cảm thấy xa lạ vì thế giới mình đang sống mọi người đều tự lo cho chính mình, thậm chí hàng xóm với nhau mà không quen không biết!  Sống trong cái thế giới đóng kín, ích kỷ đã khiến mình cũng trở nên đóng kín và ích kỷ.  Tất cả những công sức mình đổ ra cũng chỉ để phụng sự cho cái lối sống ích kỷ đó.  Đôi lúc mình có làm việc phước thiện chăng nữa thì cũng nghĩ về lợi cho mình nhiều hơn cho người.

Thực ra, chúng ta ai cũng có những đặc tính của Phật và chư Bồ tát trong ta.  Nhưng lâu ngày sống trong thế giới của ích kỷ, tham dục nên mình không còn nhìn thấy những đặc tính mà Phật đã nêu ra.  Như câu chuyện có một con đại bàng đẻ ra 2 trứng lớn. Nhưng trong lúc loay hoay ấp trứng đã làm rơi một trứng từ ổ của nó. May thay, quả trứng bị rơi xuống đất nhưng không bị vỡ.  Sau đó, có một con gà đẻ trứng gần bên.  Nó thấy quả trứng đại bàng tưởng nhầm là trứng của nó nên đem về ổ ấp.  Khi đàn gà con nở ra thì con đại bàng con cũng nở.  Mỗi khi gà mẹ dẫn con đi ăn, tiếng kêu chíp chíp thì đại bàng con cũng cất tiếng theo.  

 

Tuy nhiên, mỗi khi băng ngang một cánh đồng trống thì gà mẹ luôn cảnh báo các con mình về một con chim lạ to lớn tên đại bàng trên trời, có móng vuốt bén nhọn, luôn tìm cách bắt gà con để ăn.  Nên mỗi khi gà mẹ thấy bóng dáng giống chim đại bàng trên trời thì đều la to cục tác, và đàn gà con và con đại bàng con liền cắm đầu, cắm cổ chạy thụt mạng vào bãi cỏ cao để ẩn trốn.  Giống như đại bàng con, chúng ta không biết mình cũng cùng giống đại bàng nên đã giam hãm tâm mình trong thế giới của gà con luôn hoảng sợ!

Muốn hiểu thấu đáo xem những người trong thế giới khác sống ra sao thì mình phải đến sống với họ, hay ít nhất chứng kiến hay quan sát cách họ sống. Như để biết thế giới của người già, chúng ta có thể xin làm thiện nguyện tại các nhà dưỡng lão.  Hàng ngày mình tiếp xúc với họ, chuyện trò, hỏi han.  Chứng kiến những loay hoay vật vã của một đời sống già nua thì mình sẽ cảm thông hơn.  Cũng như trong thế giới của trẻ thơ, chúng sống trong vui đùa, vô tư, vô lự. Nếu chúng ta bắt chúng phải sống theo mình thì người ta sẽ nói rằng đứa bé này ‘già trước tuổi.’  

 

Như trong bài viết trước, chúng tôi so sánh sự bố thí của người nghèo và người giàu.  Theo thống kê thì người nghèo bố thí nhiều gần gấp đôi người giàu.  Vì sao? Vì người nghèo cùng sống chung, hay ít nhất sống gần, những người cùng khổ nên họ dễ cảm thông hơn.  Nhưng cũng cùng một thống kê cho thấy nếu người giàu sang sống trong cùng cộng đồng của kẻ nghèo thì họ cũng bố thí ngang với người nghèo hay hơn.  Thế mới biết rằng: ‘không nằm chung chăn làm sao biết chăn có rận, rệp?’

Nhờ thấu hiểu được thế giới quanh ta mà mình có thể dễ dàng phát khởi tâm từ bi, thương yêu và cảm thông vì mình không những tận mắt chứng kiến mà còn trải qua những kinh nghiệm trong thế giới đó.  Như vậy, hiểu rõ những thế giới quanh mình thì giúp ích được gì cho sự tụ tập?  Nhờ thấu hiểu, chúng ta sẽ dễ dàng phát sanh tâm từ bi, cảm thông, và hành xử một cách hợp tình, hợp lý.  Mình không 'đứng núi này, trông núi nọ' mà thật sự hiểu thấu những khổ đau, hạnh phúc của những người trong thế giới đó.  

 

Chẳng hạn như bà Barbara Ehrenreich, tiến sĩ về sinh vật học, muốn nghiên cứu và tìm hiểu đời sống của những người làm những công việc lao động, như bồi bàn, dọn dẹp nhà cửa cho người khác, chăm sóc trẻ con .v.v... trên khắp nước Mỹ.  Bà ta bèn cải trang thành một người lao động nghèo và nhập vào vai của những người kia.  Vì muốn trung thành với sự nghiên cứu của mình, bà cố gắng sống theo những số tiền bà kiếm được khi làm các công việc lao động.  

 

Bà dùng số tiền kiếm được đó để mướn nhà, mua thức ăn, trả tiền điện, tiền nước, và các món linh tinh khác. Sau 6 tháng sống trong thế giới của những người lao động, bà đành phải bỏ cuộc, chào thua vì bà phải cật lực vất vả lắm mới đủ chi phí cho cuộc sống của bà.  Sau cuộc nghiên cứu này, bà viết một quyển sách tựa đề: ‘Những Nghề Rẻ Tiền’ (Nickel and Dimed), mô tả đời sống cơ cực của những người lao động nghèo trên xứ Mỹ và bà đã đấu tranh cho những người này được có thêm sự giúp đỡ của chính phủ và ủng hộ của dân chúng Hoa kỳ.

Chúng ta thường cư xử và dán nhãn mọi người tùy theo hành động họ đã làm, như ai giết người thì mình gọi họ là sát nhân, ai lường gạt thì gọi họ là tên lường gạt, v.v… Nhưng nếu chúng ta có sống và có hiểu những người sống trong thế giới đó thì mình sẽ thấy rằng họ là một con người đã có hành động giết người hay lường gạt, chớ họ không phải thực sự là một tên sát nhân, hay kẻ tráo trở, dối gạt…  

 

Chính vì chưa từng sống và hiểu những con người như vậy nên chúng ta luôn cho họ là những người xấu, cần phải loại trừ ra khỏi xã hội.  Nhưng nếu như chính mình hay người thân của mình đã làm những hành động đó, và vì là người trong cuộc nên chúng ta biết rõ người này là ai.  Vậy, chúng ta có còn gọi họ là tên sát nhân hay lường gạt nữa không?  Nhờ hiểu thấu nên lòng từ bi phát sinh khiến mình chỉ thấy một con người đã làm điều xấu, chứ thật ra, họ không phải là một người hoàn toàn như vậy!  

 

Tôi rất thích cuốn tiểu thuyết Những người khốn khổ (Les Misérables) của văn hào Pháp Victor Hugo, được xuất bản năm 1862.  Câu chuyện nói về Jean Valjean, người cựu tù khổ sai, người đang cố gắng sống vì một xã hội tốt đẹp nhưng lại không thể thoát khỏi quá khứ của mình. May cho anh là Giám mục Myriel, một người nổi tiếng hay làm từ thiện, đã cho Jean Valjean một chỗ nương náu và một lối thoát. 

 
vu tru

Nhưng Jean lại ăn cắp những thứ đồ bạc của Giám mục và chạy trốn, anh bị bắt lại sau đó nhưng lại được ông Myriel cứu thoát khi nói với cảnh sát rằng đó là đồ ông tặng cho Valjean. Khi chia tay, vị Giám mục già nói với Jean Valjean rằng anh nhất định phải trở thành một người lương thiện và làm nhiều việc tốt cho mọi người, và Jean Valjean đã thực hiện được.  Rõ ràng, thi hào Victor Hugo, qua hình ảnh của Giám mục Myriel, đã hiểu thấu tâm trạng và tấm lòng của Jean Valjean, một kẻ tội phạm.

Biết bao nhiêu chúng sinh, biết bao nhiêu con người đang sống trong thế giới khắp nơi, chỉ cần mình mở mắt, mở lòng, nhìn xa, trông rộng thì mình sẽ thấy tất cả.  Tâm chúng ta giống như một kho lớn chứa đựng tất cả mọi hạt mầm xấu và tốt, chúng ta cần phải biết tưới tẩm những hạt mầm nào đem lại hạnh phúc, an lạc bằng cách biết nhìn với trái tim rộng mở và trải nghiệm qua những thế giới quanh mình.  

 

Càng trải nghiệm nhiều với lòng không phân biệt thì mình mới cảm nhận được cái thế giới tam thiên, đại thiên, mênh mông bát ngát trong cõi ta bà này.  Ông bà mình có câu: ‘Đi một ngày đàng, học một sàng khôn’ Chữ khôn theo tôi hiểu là nhờ có từng trải nên chúng ta có sự hiểu biết, bao dung, và rộng lượng.  Chỉ khi nào mình có hiểu biết thì mới có thể cảm thông và thương yêu được!

San Jose, tháng 10, 2014
Thiện Ý  

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/10/2013(Xem: 39032)
Phật (Buddha) là một từ ngữ để chỉ người giác ngộ viên mãn. Ðức Thích Ca Mâu Ni (Sàkyãmuni) là người đã giác ngộ, nên chúng ta gọi Ngài là Phật. Giác ngộ là thấy biết mọi chân lý về vũ trụ và nhân sinh. Từ chỗ giác ngộ này, đức Phật chỉ dạy các môn đồ còn ghi chép lại thành Tạng kinh. Trong tạng kinh chứa đầy dẫy những chân lý, dù trải qua hơn 25 thế kỷ vẫn còn giá trị nguyên vẹn, không do thời gian làm suy giảm. Ngày nay chúng ta nghiên cứu Tạng kinh thật chín chắn, càng phát hiện những chân lý ấy gần gũi và thích hợp với khoa học một cách không ngờ. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ giới thiệu tổng quát vài nét cương yếu để đọc giả suy ngẫm.
26/10/2013(Xem: 62400)
Cuộc đời đức Phật là nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều sử gia, triết gia, học giả, nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cổ, nhạc sĩ, họa sĩ, những nhà điêu khắc, nhà viết kịch, phim ảnh, sân khấu… Và hàng ngàn năm nay đã có vô số tác phẩm về cuộc đời đức Phật, hoặc mang tính lịch sử, khoa học hoặc phát xuất từ cảm hứng nghệ thuật, hoặc từ sự tôn kính thuần tín ngưỡng tôn giáo, đủ thể loại, nhiều tầm cỡ, đã có ảnh hưởng sâu xa trong tâm khảm biết bao độc giả, khán giả, khách hành hương chiêm bái và những người yêu thích thưởng ngoạn nghệ thuật.
17/10/2013(Xem: 25577)
Nếu không có một giọt nước sẽ không có đại dương. Nếu không có một hạt cát sẽ không thành sa mạc. Trong cuộc sống, nếu không có những điều vụn vặt thì việc thành bại trong thiên hạ có đáng để lưu tâm? Tôi cũng như bạn, thấy đêm dài thì trông cho mau sáng, dù không mong đêm vẫn tiếp theo ngày. Vậy nên, thương ghét, trắng đen, tốt xấu, phải trái… là điều mà xưa nay vẫn thế và ngàn năm sau vẫn thế.
17/10/2013(Xem: 40947)
Tôi đọc kinh sách, nghe giảng và học hỏi, đồng thời rút kinh nghiệm trong những năm qua cùng các pháp hữu nghiên cứu và hoằng truyền chánh pháp, đặc biệt với đạo hữu Nguyên Phước. Thấy cần, rút ra một số nét cơ bản để chia xẻ cùng quý Phật tử thật dễ đọc, dễ hiểu, dễ thực hành trong niềm tin Phật pháp.
28/08/2013(Xem: 4250)
Bầu trời chúng ta đang ngước nhìn, khoa học ước đếm có hàng tỉ ngôi sao. Mà trái đất chưa thể lớn bằng một ngôi sao. Phi thuyền của nhân loại mới chỉ bay đến một số ngôi sao trong hệ ngân hà. Kinh Phật mô tả, một dải ngân hà được gọi là đơn vị thế giới. Cứ một ngàn dải ngân hà được tính là một tiểu thiên thế giới; một ngàn tiểu thiên thế giới là một trung thiên thế giới; một ngàn trung thiên thế giới là một đại thiên thế giới.
22/04/2013(Xem: 8407)
Vào mùa Xuân năm 1992, chiếc máy Fax trong văn phòng của giáo sư Richard Davidson ở khoa Tâm lý học thuộc Viện Đại học Wisconsin bất ngờ in ra một bức thư của Tenzin Gyatso, vị Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 của Tây Tạng. Giáo sư Davidson là một nhà thần kinh học được đào tạo từ Viện Đại học Harvard, ông đã nổi danh nhờ công trình nghiên cứu về các tình cảm tích cực, và tin đồn về những thành tựu khoa học của ông đã lan truyền đến miền Bắc Ấn Độ.
22/04/2013(Xem: 7754)
Trong một vài thập niên vừa qua, chúng ta đã chứng kiến nhiều tiến bộ lớn lao trong việc tìm hiểu một cách khoa học về não bộ và cơ thể con người nói chung. Hơn nữa, với sự xuất hiện của ngành di truyền học hiện đại, kiến thức của khoa thần kinh học về hoạt động của những cơ cấu sinh học giờ đây đã đạt đến mức độ vi tế nhất của các di truyền tử riêng biệt.
09/04/2013(Xem: 5067)
Cuốn sách là bản dịch Việt ngữ của "The Tao of Physics" (Đạo của vật lý) của tác giả Fritjof Capra, bản in lần thứ ba, do Flamingo xuất bản năm 1982.
09/04/2013(Xem: 2740)
Phật pháp là một Học lý cao siêu, mầu nhiệm và thực tiễn, bao gồm hết các Pháp ở thế gian, không một bài học thuyết tư tưởng nào ngoài Phật pháp cả. Bởi thế, khi nhìn Phật pháp, nhà triết học bảo đạo Phật là triết học thuần tuý, . . .
09/04/2013(Xem: 5694)
Mục đích của tâm lý trị liệu pháp là để chữa trị, thoa dịu và làm vơi bớt nỗi khổ đau của những người đang bị dày vò bởi nhiều vấn đề nan giải trong cuộc sống, hay những người được chẩn đoán là đang mắc bệnh tâm thần.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]