Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 10: Phật giáo suy tàn và phục hưng

10/01/201115:43(Xem: 6308)
Chương 10: Phật giáo suy tàn và phục hưng

TỦ SÁCH ĐẠO PHẬT NGÀY NAY
ĐỐI THỌAI GIỮA
TRIẾT HỌC VÀ PHẬT GIÁO
Jean Francois Revel & Matthieu Ricard - BS: Hồ Hữu Hưng dịch
Nhà xuất Bản Văn Hóa Thông Tin 2010


Chương 10: Phật giáo suy tàn và phục hưng

Jean Francois: Không thể chối cãi được là sự truyền bá Phật giáo sang Tây phương đã gặp thuận lợi. Tuy thế, điều này chưa đủ để giải thích sự quan tâm hiện nay của châu Âu đối với Phật giáo. Mặt khác Phật giáo đã chứng minh một khả năng thích nghi tuyệt vời vì lẽ nó đã bị bắt buộc sống trong cảnh ly tán từ cuối thế kỷ thứ 12. Nên nhớ rằng vào thế kỷ thứ 3 trước Công nguyên vào thời vua A Dục, vào khoảng 150 năm sau Đức Phật, Phật giáo đã truyền đi khắp Ấn Độ và các nước lân cận. Cùng với Ấn Độ giáo, Phật giáo là một trong hai tôn giáo chính của Ấn Độ, vào thế kỷ thứ 6 trước Công nguyên cho đến thế kỷ thứ 12 và 13, thời kỳ mà Phật giáo bị đàn áp do sự du nhập Hồi giáo vào Ấn Độ. Sự xuất hiện đột ngột của Hồi giáo ở Ấn Độ đã gây một xúc động lớn cho mọi người và từ thế kỷ thứ 12 đến thế kỷ thứ 13, một phần Ấn Độ phải chịu sự thống trị của Hồi giáo. Dù sao Ấn Độ giáo vẫn còn là tôn giáo chính của xứ này trong khi đó Phật giáo bị quét sạch. Vì sao thế?

Matthieu:Nói chung Phật giáo đã trải qua một đoạn đường dài khó khăn suốt lịch sử của nó. Thoạt tiên các tu sĩ Phật giáo là những người lang thang. Đức Phật di chuyển rất nhiều và chỉ dừng chân ba tháng hè để nhập hạ. Trong thời gian ấy các tu sĩ ở trong các lều tạm làm bằng tre lá, và sau đó họ tiếp tục cuộc hành trình. Theo dòng thời gian, nhiều tín đồ đã mong muốn có một nơi cố định để Đức Phật và chư tăng hàng năm về nhập hạ. Những thí chủ bắt đầu dựng lên những nhà kiên cố mà hình dáng giống như các lều tre thuở trước. Dần dần một vài tu sĩ bắt đầu ở luôn trong các ngôi nhà ấy, rồi nhiều cộng đồng được thiết lập và như vậy là những tu viện đầu tiên ra đời. Ban đầu, Phật giáo chỉ giới hạn trong tỉnh Ma-kiệt-đà tức bang Bihar Ấn Độ ngày nay. Sau đó nó lan truyền nhanh chóng khắp Ấn Độ cho đến A Phú Hãn (Afghanistan). Có những sự trao đổi với Hy Lạp, bằng cớ là bản văn sưu tập triết lý nổi tiếng dưới dạng đối thoại của Na Tiên tỳ kheo và vua My-lan-đà đã thống trị vùng Bactriane vào thế kỷ thứ 2 trước Công nguyên.

Jean Francois: Để cho độc giả hiểu rõ hơn, thời đại vua My-lan-đà nằm giữa thế kỷ thứ 4 trước Công nguyên và thời kỳ toàn thịnh đế chế La Mã thế kỷ thứ l trước Công nguyên.

Matthieu: Việc đi lại của các đoàn lữ hành buôn bán đã cho Phật giáo có cơ hội tiếp xúc với văn minh Hy Lạp thời đó rất cởi mở với các luồng tư tưởng ngoại lại.

Jean Francois: Và các cuộc chinh phạt của Alexandre đại đế đã tăng thêm các cuộc tiếp xúc đó và vì thế đã khai sinh ra nghệ thuật Hy Lạp - Phật giáo.

Matthieu:Khoảng thế kỷ thứ 6 và nhất là thế kỷ thứ 9, Phật giáo đã du nhập vào Tây Tạng do Liên hoa Sanh (Padmasambhava) được vua Trisong Detsen mời đến. Vị vua này trước đó đã có một vị thầy Phật giáo và theo lời khuyên của vị thầy này là nên xây dựng một ngôi tu viện lớn đầu tiên ở Tây Tạng. Vua bèn mời Liên Hoa Sanh một vị đại hiền thời bấy giờ. Liên Hoa Sanh được người Tây Tạng xem như vị Phật thứ hai vì chính nhờ Ngài mà Phật giáo mới phát triển ở Tây Tạng. Như vậy là Liên hoa Sanh đã trông nom việc xây dựng Samyé, ngôi chùa Phật giáo đầu tiên ở Tây Tạng. Cũng chính Ngài đã dịch Giáo quy Phật giáo từ tiếng Phạn sang tiếng Tây Tạng. Ngài đã mời hàng trăm học giả Phật giáo Ấn Độ, và gửi sang đấy những thanh niên Tây Tạng để học tiếng Phạn. Sau đó, một hội đoàn gồm có các dịch giả Tây Tạng và học giả Ấn Độ tụ họp tại Samyé trong vòng 50 năm để dịch l03 quyển "Lời dạy của Đức Phật'' và 213 quyển ''Bình giải về các lời dạy này'' của các học giả Ấn Độ. Trong vòng 2 hay 3 thế kỷ kế tiếp, nhiều bực đạo sư Tây Tạng đã đến Ấn và ở đấy hàng l0 hay 20 năm. Sau đó họ trở về Tây Tạng mang theo các bản văn còn chưa được dịch trước đó.

Jean Francois: Trong thời gian đó cái gì đã xảy ra ở Ấn Độ?

Matthieu: Ở Ấn Độ vào cuối thế kỷ thứ 12, sự đàn áp của Hồi giáo nhắm vào Phật giáo đã đến điểm đỉnh. Phật giáo đang trên đà suy vi và là cái đích ngắm dễ dàng, vì các đại học Phật giáo rất dễ nhận diện. Đại học Nalanda và Vikramathila có hàng ngàn sinh viên theo học dưới sự bảo trợ của các vị thầy nổi danh nhất thời bấy giờ. Những đại học ấy cũng có những thư viện mênh mông với một sự phong phú có thể sánh với thư viện thời danh ở Alexandrie. Tất cả những tòa nhà ấy đều bị phá hủy, sách vở bị đốt sạch và các tu sĩ bị tàn sát.

Jean Francois: Và cũng vì sự dễ nhận dạng của các Đại học Phật giáo, các thư viện, các ngôi chùa mà Phật giáo đã bị quét sạch dễ dàng hơn là đối với Ấn Độ giáo đã chống đỡ hữu hiệu hơn.

Matthieu:Không hẳn là thế. Phật giáo đã bắt đầu suy tàn ở Ấn Độ vì nhiều lý do không rõ ràng. Từ thế kỷ thứ 6 sự phục hồi các truyền thống Bà la môn và sự đồng hóa vài quan niệm Phật giáo vào kinh Vệ đà là một trong những kinh siêu hình chính của Ấn giáo, đã mài mòn ảnh hưởng Phật giáo. Sau khi lan rộng khắp Ấn Độ, Phật giáo lại co về tập hợp tại vùng Ma-kiệt-đà tức ban Bihar ngày nay và về nước Bangladesh. Kinh Vệ đà nhấn mạnh về thuyết bất nhị đã sáp nhập những điểm quan trọng trong kinh điển Phật giáo, tuy nhiên vẫn công kích Phật giáo. Cái ảnh hường đó đã lấp dần hố ngăn cách về học thuyết Ấn giáo và Phật giáo. Hơn nữa, Ấn Độ rất chú trọng về hệ thống giai cấp mà Phật giáo không màng tới. Lại còn những trung tâm Phật học quan trọng và những tu viện lớn đã làm cho các bộ lạc Hồi lầm tưởng 1à những pháo đài và đã hủy diệt không thương tiếc.

Jean Francois: Một vài tư tưởng Phật giáo có tồn tại trong Ấn giáo hay không?

Matthieu: Có thể nói chúng đã được đồng hóa, dù rằng các triết gia Ấn giáo vẫn tiếp tục công kích học thuyết Phật giáo.

Jean Francois: Vậy Phật giáo là một trong các ví dụ hiếm thấy về một tôn giáo bị quét sạch khỏi vùng đất nơi nó được khai sinh và phát triển trong suốt một thiên niên kỷ. Người ta cũng có thể cho một ví dụ khác: đó là sự bóp nghẹt, sự dập tắt, sự bứng gốc một phần các tôn giáo trước Christophe Colomb do sự chinh phục châu Mỹ La Tinh bởi Tây Ban Nha và châu Âu.

Matthieu:Phật giáo cũng đã di chuyển về hướng nam đến Srilanka, sau đó về hướng đông qua Thái Lan, Miến Điện, Lào dưới hình thức Phật giáo Nguyên thủy (Theravađã) nó cũng được truyền lên miền bắc sang Trung Hoa vào thế kỷ thứ 6 dưới hình thức Đại thừa và sang Nhật Bản nơi nó phát triển thành Phật giáo Thiền tông (Zen) hiện nay chủ trương quan sát bản thể của tâm.

Jean Francois: Sau thế chiến thứ hai và cho đến 1970, thiền tông rất phổ biến và được xem là thời thượng ở Tây phương. Những học trò của Berkeley trong những năm 60 khi có phong trào chỉ trích Tây phương đã rất say mê thiền tông. Vài người đã thử hành trì và cho đó là một sự hòa hợp giữa một học thuyết chính trị và Phật giáo. Họ đã sáng chế ra cái mà họ gọi là Thiền tông Mác- xít, tuy nhiên đã không tồn tại lâu.

Matthieu:Phật giáo thiền tông hiện nở rộ ở phương Tây. Tuy nhiên ở Tây Tạng ba thừa Phật giáo được gìn giữ và được tiếp nối rất trung thực, điều này giúp cho Phật tử tiếp thu các lời dạy kinh điển trong hành trình tâm linh của mình.

Việc hành trì Tiểu thừa- đúng hơn là Phật giáo nguyên thủy Theravada- đặt nền tảng trên đạo đức, trên kỷ luật tu viện và nhất là trên thiền quán về sự bất toàn của thế gian và tính phù du của mọi nỗi bận tâm của chúng ta trong cuộc đời. Những suy tư đó khiến hành giả muốn thoát ly đau khổ và cái vòng lẩn quẩn của cuộc sống tức ra khỏi luân hồi. Phật giáo nguyên thủy không thiếu tình thương với đồng loại cũng như lòng bi mẫn với những người đau khổ, nhưng đại thừa ở Tây Tạng, ở Trung Hoa, ở Nhật đã nhấn mạnh đến tình yêu và lòng bác ái đối với chúng sinh. Theo lời dạy của đại thừa ta khó thoát ra đau khổ nếu tất cả chúng sinh quanh ta tiếp tục đau khổ. Mục đích của đại thừa là chuyển hóa tâm thức vì lợi ích chúng sinh. Ở Ấn Độ nhất là ở Tây Tạng đã phát triển thêm thừa thứ ba: Kim cang thừa hay Mật tông. Thừa này thêm vào hai thừa trên những kỹ thuật tâm linh nhằm giúp thể hiện nhanh chóng hơn Phật tính ở chúng ta và chỉ ra sự nhất nguyên của vạn vật. Cái nhận thức ấy thay vì bóp chết lòng từ bi lại tăng cường và củng cố nó. Như vậy là nhờ vào sự hội tụ của hoàn cảnh địa lý và chánh trị mà Tây Tạng có thể tổng hợp cả ba thừa Phật giáo.

Jean Francois: Do những gian nan trong việc truyền đạo Phật giáo có chiều hướng phát triển ra ngoài quốc gia và nhờ vậy đã thâm nhập vào Tây phương. Nó đã không liên kết với một nền văn hóa nhất định nào, dù rằng trong lịch sử của nó, Phật giáo đã từng giao thoa chặt chẽ với nhiều nền văn hóa khác. Cho dù như Tây Tạng, giống như một pháo đài tâm linh đã gìn giữ được các thừa Phật giáo suốt hơn một thiên niên kỷ, những lời dạy của Đức Phật cũng đã lan truyền sang những nền văn minh khác hẳn như Srilanka và Nhật Bản. Phật giáo có đượm màu sắc của quốc gia mà nó đang phát triển ở đấy không?

Matthieu:Ở Tây Tạng cũng có một mối đạo riêng của địa phương gọi là đạo Bôn có dáng vẻ một đạo thờ ma quỷ, nhưng cũng có riêng một thuyết siêu hình phức tạp còn tồn tại đến ngày nay. Vào thế kỷ thứ 9, những cuộc tranh luận siêu hình đã nổ ra giữa đạo Bôn và Phật giáo. Một vài tập tục của đạo Bôn đã được sáp nhập vào Phật giáo. Những hiện tượng tương tự cũng xảy ra ở Thái Lan, Nhật Bản v.v... và chắc chắn sẽ xảy ra ở Tây phương. Nhưng cốt tủy Phật giáo thì không hề thay đổi.

Jean Francois: Như vậy là sự truyền bá cũng như sự hành trì Phật giáo có chiều hướng toàn cầu hóa. Nhưng nhiều đạo khác cũng tự cho có tầm cỡ thế giới ví đụ như Cơ đốc giáo, đúng hơn là Công giáo vì chữ Công giáo đến từ chữ Hy lạp có nghĩa là hoàn vũ. Và vì hiểu như thế nên Công giáo tự cho có quyền bắt mọi người cải đạo bằng võ lực. Hồi giáo cũng có khuynh hướng tương tự bằng súng và đao. Vì lẽ trong những đạo này để trở thành tín đồ bắt buộc phải có niềm tin tuyệt đối vào vài giáo điều. Nhưng trường hợp này không có trong Phật giáo. Sự giao lưu với các nền văn hóa khác, không hề ngụ ý một sự tuân phục hoàn toàn, nói gì đến một sự ép buộc.

Matthieu: Đức Phật đã nói: "Đừng tin những gì ta nói. Tự các ngươi xem xét chứng nghiệm và tìm ra ra chân lý. Ta chỉ ra con đường, các người tự thắp đuốc mà đi.” Lời dạy của Đức Phật giống như một cuốn sổ ghi nhớ, diễn tả và chỉ dẫn con đường đi đến sự tỉnh thức, con đường mà ngài đã đi qua. Để trở thành Phật tử, người ta nương tựa vào Đức Phật không phải như một thần linh mà như một người chỉ đường tượng trưng cho sự giác ngộ. Người ta cũng nương tựa vào Pháp, không phải như một giáo điều mà như một con đường sau cùng người ta nương tựa vào Tăng đoàn như những bạn đồng hành đi trên con đường đạo. Nhưng Phật giáo không bao giờ cố gắng đưa người ta vào đạo hay cải đạo cho họ, điều này hoàn toàn vô nghĩa với Phật giáo.

Jean Francois: Đúng vậy, chỉ vì Phật giáo không bao giờ bắt buộc một ai vào đạo, hoặc cải đạo người khác, sự thâm nhập của Phật giáo vào một nền văn hóa khác biệt xứng đáng để được giải thích và học hỏi.

Matthieu:Phật giáo không bao giờ có thái độ chinh phục, nó chỉ biểu hiện như một cuộc phát huy tinh thần. Những ai muốn tìm hiểu nó phải có can đảm đi bước đầu tiên và khám phá nó qua sự chứng nghiệm bản thân. Thật rất thú vị khi nhìn thấy Phật giáo trổ hoa ở Tây Tạng và ở Trung Quốc. Nhiều bậc đại hiền đã đến đó và ánh sáng tâm linh nơi họ đã thu hút rất nhiều đệ tử như mật hoa lôi kéo đàn ong vậy.

Jean Francois: Qua những cuộc trao đổi giữa chúng ta, Ba nhận thấy sự phong phú của ẩn dụ trong ngôn ngữ Phật giáo. Điều này cũng không làm phiền lòng Ba. Platon cũng thường dùng những hình ảnh, những huyền thoại cùng những so sánh. Ba luôn luôn thích việc đem thơ vào triết lý nhưng Ba không chắc rằng việc này có thể đem đến câu trả lời cho tất cả các câu hỏi mà ta có thể đặt ra.

Matthieu:Thếthì con cho Ba thêm một hình ảnh, khi nói rằng ẩn dụ như là ngón tay chỉ mặt trăng. Phải nhìn mặt trăng chớ không nhìn ngón tay. Một hình ảnh đôi khi nói nhiều hơn là một sự diễn tả dài dòng.

Jean Francois: Vấn đề quan yếu với văn minh phương Tây, là tự hỏi xem những nhu cầu tâm linh nào nó cần đến mà không thể tự mình thỏa mãn được, và câu trả lời khả dĩ Phật giáo có thể mang đến. Tuy nhiên ý niệm một học thuyết có thể thích nghi để đáp ứng các nhu cầu tâm linh của Tây phương cũng có thể là một cái bẫy. Rất nhiều người Tây phương gia nhập vào các giáo phái lừa bịp, và đôi khi lại có hành động sát nhân nữa. Vấn đề đặt ra là tính xác thực của Phật giáo như là một khoa học tâm linh.

Matthieu:Mục tiêu chính của Phật giáo là sự khám phá ra bản thể của tâm linh và nó đã có 2500 năm kinh nghiệm trong lãnh vực này. Đó là nó và tính xác thực còn nói về chân lý, thì chính chân lý là sức mạnh của Phật giáo. Nó hiển lộ qua những sự kiện và những con người bất chấp thời gian và hoàn cảnh, khác hẳn với các giáo phái ngụy tạo chỉ chờ cơ hội là sụp đổ. Cái tính cách dối trá của một số giáo phái đôi khi cũng có một số đông tín đồ luôn luôn bộc lộ bởi những mâu thuẫn nội bộ, những tai tiếng, đôi khi những hành động rùng rợn như các bản tin thời sự thường đăng tải. Ngược lại, sự gia tăng chú ý về Phật giáo đối với phương Tây thì kín đáo hơn nhiều. Những trung tâm Phật giáo là nơi gặp gỡ của những người bạn có cùng chung một khát vọng và muốn kết hợp với nhau để học hỏi, hành trì, dịch thuật các bản văn và bình luận sang ngôn ngữ Tây phương. Mục đích của họ là để phổ biến một truyền thống tâm linh đích thực và sống động. Những người này luôn luôn được cảm tình của dân chúng địa phương.

Jean Francois: Ba tuyệt đối không hề có ý so sánh một nền minh triết đã có hơn hai thiên niên kỷ với các giáo phái quái gỡ hư hỏng đang hoành hành hiện nay mà đa số chỉ là những cuộc kinh doanh lừa đảo. Nhưng vì Ba luôn luôn đề phòng về những kích động nhất thời của tâm tính con người, Ba chỉ muốn lưu ý về sự say mê của một số người đối với một lý thuyết mới, hay đối với những vị thầy mà họ cho là khả kính nhưng thật ra chỉ là những kẻ lưu manh. Sự say mê nhất thời của số người đó không chứng minh được là giáo thuyết mà họ đang hướng về thật sự là đáng thuyết phục. Cần phải có một sự chứng minh rõ ràng hơn.

Matthieu:Một sự chứng minh như vậy chỉ có thể có được với kết quả dài hạn qua cuộc hành trình tâm linh. Kết quả của sự học hỏi là tự làm chủ được bản thân, và kết quả của việc hành trì là sự giảm thiểu các tình cảm tiêu cực. Một sự say mê nhất thời không có giá trị gì.

Jean Francois: Đó là tất cả điều Ba muốn nói. Rõ ràng nếu căn cứ vào sự quan sát thuần túy các sự kiện thì không thể so sánh Phật giáo với các giáo phái được. Nhưng nên nhớ rằng đôi khi một vài nhà trí thức có tiếng tăm cũng bị kẹt vào những việc nhảm nhí. Ba có biết một vài bác sĩ thời danh đã gia nhập vào những trò đùa dai kiểu đó hàng năm ròng và gánh chịu những sự ràng buộc của các giáo phái đó. Như vậy khi muốn tìm chân lý, không nên chỉ bằng lòng với khát vọng của con người với một truyền thống tâm linh có thể là giả hiệu vì lẽ con người có nhiều khát vọng về đủ mọi thứ. Nói thế là để chỉ ra trách nhiệm của người đề ra giáo thuyết.

Matthieu:Một con đường tâm linh đích thực bắt buộc phải khắt khe với chính mình và bao dung với kẻ khác. Trái với các giáo phái trong đó người ta rất khó khăn với người khác lại quá dễ dãi với chính mình đối với những lý tưởng mà người ta đề ra. Chỉ cần một người có ít nhiều tính toán quyết định lợi dụng ảnh hưởng của mình với kẻ khác, để những kẻ yếu lòng không biết nương tựa vào ai sẵn sàng làm nô lệ cả linh hồn lẫn thể xác cho họ. Nhưng điểm khác biệt căn bản, là các giáo phái thường khi là sự pha tạp các yếu tố rải rác, các mảnh gọi là truyền thống không bắt nguồn tìm một sự truyền thừa tâm linh đích thực nào, và cũng không dựa trên một nguyên tắc siêu hình nào cả. Do vậy các giáo phái đó không đưa đến một sự tiến bộ tâm linh bền vững nào mà chỉ đem đến sự bấn loạn và thất vọng.



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/08/2010(Xem: 52207)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 51613)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
27/08/2010(Xem: 9427)
Theo quan kiến của các luận sư Phật học, kinh điển của Phật giáo Đại thừa, thì phần văn lý hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và linh hoạt như: các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa… được xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung nên giáo lý được phân định theo hai phần: Phương tiện môn và Chân thật môn. Về phương tiện môn, như có lần đức Phật ví pháp đó như nắm lá trong tay đã rời khỏi sự sống, còn sự hiểu biết và diệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn luôn xanh tươi, vận hành theo bốn mùa.
03/08/2010(Xem: 12379)
Mặc dù được xem như là một tôn giáo, thì Phật giáo vẫn là một trong các truyền thống tri kiến vĩ đại nhất của thế giới, được dựa trên cơ sở về trải nghiệm và lập luận hơn là việc tin tưởng không điều kiện vào thần quyền. Trong nhiều thế kỷ, đạo Phật đã đối thoại với các truyền thống khác ở châu Á như là Ấn giáo, Khổng giáo và Lão giáo, đó là các truyền thống vốn có các luận điểm riêng về thực tại. Nhưng đến kỷ nguyên mới này, thì sự thống trị lại thuộc về khoa học hiện đại vốn là một hệ thống truy cứu và tri kiến về thế giới tự nhiên một cách có lập luận, cho nên nếu muốn duy trì vị thế sẵn có như là một truyền thống thực nghiệm và tập luận truy cứu nghiêm cẩn, thì Phật giáo phải đối mặt với khoa học.
20/07/2010(Xem: 15118)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
18/07/2010(Xem: 12692)
Bất cứ người nào có nghiên cứu Phật học, có kiến thức về giáo lý đạo Phật như được ghi trong ba tạng kinh điển, đều thừa nhận đang có một khoảng cách lớn, phân biệt đạo Phật trong kinh điển (mà tôi tạm gọi là đạo Phật lý thuyết) với đạo Phật ở ngoài đời, trong cuộc sống thực tế. Đạo Phật lý thuyết là đạo Phật lý tưởng. Khoảng cách giữa lý tưởng và thực tế là chuyện tất nhiên và tất yếu. Bởi lẽ nếu không có khoảng cách đó giữa đạo Phật lý tưởng và đạo Phật thực tế thì mọi người chúng ta đều thành Phật cả rồi, và cõi đất này là cõi Phật rồi.
18/07/2010(Xem: 13060)
Chúng ta không ai không hấp thụ một nền giáo dục, hay ít ra tiếp nhận một hình thức giáo dục. Thế nhưng chắc chúng ta không khỏi lúng túng khi gặp câu hỏi bất ngờ như trên và khó trả lời ngay một cách vắn tắt trọn nghĩa và trôi chảy.
11/07/2010(Xem: 9933)
Có nhiều bài báo, nhiều công trình khảo cứu công phu viết về con số 0 cả từ thế kỷ trước sang đến thế kỷ này. Quả tình, đó là con số kì diệu. Có những câu hỏi tưởng chừng ngớ ngẩn, chẳng hạn, “số không có phải là con số?”, nhưng đó lại là câu hỏi gây nên những trả lời dị biệt, và ở mỗi khuynh hướng tiếp cận khác nhau, những câu trả lời khẳng hoặc phủ định đều có những hợp lý riêng của chúng. Thế nhưng, hầu như ngoài những nhà toán học thì chẳng mấy ai quan tâm đến con số không; có thể nói người ta đã không cần đến nó từ các nhu cầu bình nhật như cân đo đong đếm.
03/03/2010(Xem: 9818)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, vào khoảng 560 năm trước "thời đại hoang mang" (560 BC): từ của LLoyd M. Graham trong cuốn Deceptions and Myths of the Bible), một nhân vật lịch sử với một tiểu sử rõ ràng đã sinh ra đời để mở đường cho chúng sinh thấy, giác ngộ và hội nhập cái biết và thấy của Phật (Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến). Nhân vật lịch sử này chính là Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn ở miền Nam Népal ngày nay.
08/01/2009(Xem: 12580)
Trong tập sách này, tác giả Nguyễn Tường Bách trình bày lại các chặng đường quan trọng trong quá trình phát triển của ngành vật lý và triết học về khoa học tự nhiên trong hơn 25 thế kỷ qua. Tác giả chú trọng đặc biệt đến sự phát triển của hai lý thuyết vật lý quan trọng nhất trong thế kỷ 20, thuyết tương đối và thuyết lượng tử cũng như ý nghĩa triết học của chúng. Chính những lý thuyết này sẽ giúp bạn đọc hiểu được mối liên hệ với triết học và tư tưởng Phật giáo ở phần sau. Vẫn xoay quanh những câu hỏi muôn đời của loài người "vũ trụ là gì, từ đâu mà có?", "thực tại trước mắt chúng ta thực chất là gì?", "bản chất của thực tại vật chất là gì?"…, tác giả dẫn dắt chúng ta theo một hành trình từ vật lý đến triết học rồi gõ cửa và dừng chân ở tư tưởng Phật giáo để lý giải thế giới hiện tượng. "Cuộc sống là một dòng tâm thức bất tận, không đầu không đuôi… Hãy đơn giản hóa một đời thành một ngày. Đời này của chúng ta như là ngày hôm nay…"
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567