Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giải mã những bí ẩn của thiền định

22/09/201010:25(Xem: 6403)
Giải mã những bí ẩn của thiền định

Chưabao giờ các công trình nghiên cứu về những bí mật của Thiền định lạiđược các phương tiện thông tin đại chúng, các hãng truyền thông lớn, đềcập đến nhiều như thời gian vừa qua. Các hãng tin như AP, Reuter cácbáo như News Week, Time... đều có nhiều bài viết chi tiết mô tả nhữngkhám phá của các nhà khoa học Anh, Mỹ qua phương pháp chụp cộng hưởngtừ hoạt động của bộ não các Thiền sư, đã phát hiện ra nhiều điều màtrước đây, khi nói đến hầu hết mọi người đều nghĩ rằng đó chỉ là nhữngcảm giác có được do phương pháp tự kỷ ảm thị hoặc tưởng tượng mà thành.

Bản tin của Reuters dẫn tuyên bố của giáo sư Owen Flangan thuộc viện đại họcDuke ở North Carolina đã tuyên bố rằng: "Bâygiờ, chúng tôi có thể lập thuyết với nhiều tin tưởng rằng những bóngdáng các nhà sư có dáng dấp thanh thoát, an tịnh mà ta hay thấy ở nhữngnơi như Dharamsala, Ấn độ, là họ thực sự hạnh phúc".

Năm 1967, giáo sư Herbert Benson ở đại học Y Harvardđã tiến hành nghiên cứu trên 36 người thiền định và thấy rằng khi ngồithiền họ dùng lượng oxy ít hơn bình thường 17%, giảm 3 nhịp tim/phút vàtăng sóng theta ở não -hệt như trạng thái trước ngủ - trong khi toàn não vẫn tỉnh táo.7 năm sau, tiến sĩ tâm thần học Gregg Jacobs, Đại học Harvard, qua ghisóng não đã phát hiện ra rằng những người thiền có thể sản ra rất nhiềusóng theta và có thể phong tỏa phần não trước vốn nhận và xử lý cảmgiác, ngoài ra họ cũng giảm thiểu hoạt động ở phần thùy đỉnh não, nơiphụ trách các cảm giác về không gian - thời gian. Bằng cách "tắt"thùy đỉnh não, người ta có thể mất cảm giác về giới hạn và thấy vũ trụ "trởthành một".

Tiến sĩ tâm thần học Gregg Jacobs
Tiến sĩ tâm thần học Gregg Jacobs (Ảnh: cbtforinsomnia)

Cuộc nghiên cứu khác gần đây của Paul Ekman thuộc Trung tâm Y học, Viện đại học California, San Francisco, gợi ý rằng thiền định và quán chiếu cóthể chế phục được nhân hạnh đào(amygdale), một vùng não lưu trữ những ký ức sợ hãi. Ekman khám phá rarằng những thiền sư cao cấp khó bị chấn kích, bất an, hoảng hốt hay nổigiận như những người thường khác. Tuyến thượng thận, mơi tiết raAdrrenalin, điền khiển nhịp tim trong các trường hợp sợ hãi, hoảng hốtgần như được các Thiền sư khống chế hoàn toàn. Ông tuyên bố trong mộtbáo cáo trong tạp chí Nhà Khoa học mới (New Scientist) rằng: "Lập thuyết hữu lý nhất là có cái gì đó nơi hành thiền của Phật giáo đã dẫn đến một nguồn an lạc mà tất cả chúng ta đều mưu cầu".

Các nhà khoa học đều tin chắc rằngThiền định hoàn toàn có khả năng "rửa"lại não, giải tỏa các khu vực căng thẳng vì máu ở trong tình trạng ách tắc.Các trào lưu Thiền định ở Mỹ đều tin rằng Thiền định có thể chữa đượcđược các bệnh tim mạch, stress, ung thư, thậm chí cả AISD và đã cótrường hợp thay thế cho Viagra! Những điều này thật ra không phải quácường điệu, mọi hoạt động của cơ thể, mọi bệnh tật xét ra cho cùng đềuxuất phát từ bộ não. Một bộ não khỏe mạnh chắc chắn sẽ có một cơ thểkhỏe mạnh.

Thử lý giải những điều này trên cơ sở những điều đãbiết và dựa trên các kinh sách về Thiền định trong Phật giáo chúng tathấy; bộ não con người có 100 tỷ tế bào thần kinh. Mỗi tế bào thần kinhqua những đường dẫn truyền lại có quan hệ với 50 ngàn tế bào thần kinhkhác. Điều này dễ hiểu sự hoạt động phức tạp trong việc xử lý các khốilượng thông tin khổng lồ của bộ não. Thế nhưng điều này cũng cho chúngta hiểu câu nói mà nhà Phật hay nói: "Một niệm mà sinh thì trùng trùng duyên khởi".Một tế bào thần kinh hoạt động, tức khắc sự lan truyền diễn ra nhưtrong phản ứng hạt nhân! Các ý nghĩ nối tiếp ý nghĩ, sự tư duy hìnhthành. Các bạn hãy thử ngồi năm phút lúc rảnh rỗi và đếm xem trongchừng đó thời gian mình đã nghĩ về bao nhiêu điều! Thường là không íthơn 10 chuyện nghĩ khác nhau!

thiendinh107
(Ảnh: visiontv)
Thật kỳ lạ, ngoài những lúc tập trung làm việc, thì ra chúng tasử dụng bộ não rất nhiều vào những chuyện vớ vẫn không đầu không cuốimột cách chẳng để làm gì .

Tuy vậy đó là điều bình thường của người khỏemạnh. Ở người bị bệnh tâm thần thì ý nghĩ của họ có thể chỉ có mộtnhưng họ không thể dừng nó lại được, nó cứ phát triển một cách bùng nổvà đến mức độ nào đó thì người bệnh sống với các ý nghĩ ấy, các ý nghĩđều trở thành thật, và chúng ta gọi họ bị bịnh điên. Những người trongtrạng thái stress, cũng không dứt ra được các tình cảm mà họ rơi vào.Điều này kéo dài sẽ đưa đến những hiệu ứng tiêu cực trên toàn cơ thể.Có người thì bị tim mạch, người thì đau dạ dày, người thì mất ngủ, suynhược thần kinh, cơ thể...

Như vậy là người khỏe mạnh bình thường đều đã biếtrằng các ý nghĩ là không có thật và không nên theo. Chúng ta đều biếtdừng lại sau khi "chạy"theo nó một đoạn. Điều này tuy bìnhthường nhưng các thiền sư thì bảo đó là vọng tưởng. Cách gọi này khôngphải là không có lý ở góc độ vô bổ, vô nghĩa. Các phương pháp thiền định đều tìm cách chặn các niệm không cho nó khởi lên ngay từ gốc.Có phương pháp thì hướng sự tập trung suy nghĩ vào chuyện khác như đếmhơi thở, theo dõi cơ thể trên từng centimét vuông một, hoặc theo dõimột cách khách quan suy nghĩ của mình không lơi lỏng, nghĩ cái gì làbiết mình đang nghĩ cái đó; có phương pháp thì tập trung suy nghĩ vàomột công án, tức một câu hỏi gần như không có lời đáp, ví dụ khuôn mặtta khi cha mẹ chưa sinh ra là gì; có phương pháp thì tập trung vàochuyện ngồi và biết mình đang ngồi, có phương pháp như của Thầy NhấtHạnh ở Pháp thì luôn nhẩm "Hít vào tâm tĩnh lặng, thở ra miệng mỉm cười"; có phương pháp như của thầy Thanh Từ ở chùa Trúc Lâm Đà Lạt thì "Biết vọng không theo",gọi tắt là Tri vọng; có phương pháp thì niệm chú hoặc nhún nhảy nhẹnhàng theo một vũ điệu nào đó... Tất thảy đều một mục đích làm sự hoạtđộng của bộ não con người lắng xuống, yên tĩnh lại, dần dần đạt đến sựrỗng không.

Điều này hoàn toàn không dễ nếu không nói là vô cùngkhó. Theo bản năng, bộ não chúng ta không chịu tĩnh lặng, ngay cả khiđang ngủ. Trong kinh Phật chúng ta đọc thấy câu "Chư Phật ngủ không mơ bao giờ!".Điều này cho thấy bậc giác ngộ đã hoàn toàn đạt đến một trạng thái hoạtđộng khác của bộ não và điều này thì rõ ràng khoa học chưa biết đến.

Nhà Thiền có câu chuyện như sau: Hương Nghiêm thônghiểu thiên kinh vạn quyển nhưng vẫn là người chưa ngộ đạo. Một hôm QuySơn đến và nói: "Anh thật là thông minh tài trí nhưng hãy nói cho tôibiết, anh từ đâu mà có?".Hương Nghiêm về lục tung hết tất cả sách vở để tìm câu trả lời. Đi đếncùng câu hỏi ấy là vũ trụ này từ đâu mà có. Không tự trả lời được ôngtìm đến Quy Sơn và cầu khẩn: "Xin hé mở cho tôi cái bí mật của lời nói này". Quy Sơn bảo: "Nếu ta giải thích cho ngươi rõ ràng sau này ngươi sẽ oán ta"."Sư phụ, lòng tốt của thầy thật bao la. Nếungày ấy thầy giải thích thì hôm nay làm sao con có được kinh nghiệm kỳ diệu này". Thế là Hương Nghiêm vứt bỏ tất cả để về quê cuốc đất. Một ngày kia saumười năm, lúc đang dãy cỏ, ông cuốc đụng một miểng sành và nhặt lấyquăng vào một bụi trúc. Miểng sành chạm phải một cây trúc khô và ngânlên một tiếng ngân đặc biệt. Hương Nghiêm bừng ngộ. Ông hiểu được ôngtừ đâu mà có, vũ trụ này từ đâu mà có. Ông quỳ xuống, lạy về phía QuySơn và bảo:

Cũng như công án âm thanh của một bàn tay, công án"Ta từ đâu mà có"nếu xét về mặt kiến giải thì có thể xếp vào loại nhận thức một quy luậtcủa tự nhiên. Triết học hiện đại gọi đó là quy luật vận động, vật chấtlà luôn vận động, vận động là một thuộc tính của vật chất. Triết họchiện đại, triết học phương Tây thì tiếp cận các quy luật, các thuộctính của vật chất, của vũ trụ của sự sống... thông qua các khái niệm.Triết học phương Đông nói chung và Phật giáo nói riêng, không làm nhưvậy, các khái niệm luôn là vật cản, là tri chướng, không cho con ngườicó thể mang cả trí tuệ cũng như thể xác của họ thâm nhập vào các quyluật có tính toàn vũ trụ. Khi giác ngộ thì mỗi tế bào cũng thấm đẫm cáiquy luật được chứng đắc ấy. Tôn giáo nào cũng vậy, cái mục tiêu cuốicùng luôn là động lực khiến các tín đồ theo và phấn đấu. Ở Phật giáo đó là giác ngộ, là Niết Bàn.

Thêm một kiến giải nữa về giác ngộ là thêm một hạtmuối thả vào biển. Tuy vậy, vẫn không phải là không có cách. Chúng tahãy thử giả định rằng chúng ta đã giác ngộ, chúng ta đã tuệ thông vớinhiều phép thần thông tuyệt diệu, tai có thể nghe ngàn dặm, mắt có thểnhìn qua núi non biển cả, thân hình có thể đi mây về gió, tỏa sáng hàoquang, tinh thần thông suốt không bị bất cứ một trở ngại nào, tạo hóalàm gì cũng có thể hiểu được, ông Thượng Đế, nếu có, thì ngồi uống tràvới ổng mà không một chút e ngại .v.v... thì lúc ấy, cơ thể ta sẽ nhưthế nào? Bởi vì các phép thần thông ấy khó biết, khó giải bày, bởi vìcái đời sống tinh thần ấy hầu như không thể hiểu được, không thể kiểmchứng, không thể xác nhận nên chúng ta sẽ tìm hiểu ở một góc độ khác làxem lúc ấy cơ thể ta sẽ như thế nào.

Cáigì không biết chứ chắc chắn một điềurằng nó sẽ không giống với cái cơ thể ta trước đó. Cái gì không biếtchứ chắc chắn một điều là ta sẽ chẳng có bệnh tật gì cả?Thậtvô duyên khi một bậc giác ngộ mà bị huyết áp, lớn tim, ho lao hoặc ungthư. Có thể có một số bệnh ngoại khoa cấp tính như gãy xương, ruộtthừa, hoặc bệnh kiết lỵ do ngộ độc nấm độc mà Đức Thế Tôn đã mắcphải... còn ngoài ra cơ thể ta là một sự khỏe mạnh đến trong suốt. Bệnhgì không biết chứ bệnh do tâm thần sinh ra như huyết áp, tim mạch,stress, mất ngủ, đau đầu, chóng mặt, hoa mắt, suy nhược, đau khớp, đáiđường... sẽ không bao giờ mắc phải. Người đã mắc phải, thì nếu giác ngộxong bệnh này cũng sẽ biến mất.

thiendinh300

(Ảnh: sivananda)
Chắc chắn là như vậy rồi. Chúng ta hãy hình dung, những bệnhtrên xuất hiện do căng thẳng, lo nghĩ mà có. Người giác ngộ thế nàokhông biết chứ chắc chắn đó là người không còn biết sợ, biết lo nữa.Cuộc sống của họ là một sự ân sủng của tạo hóa ban cho trong từng giây,từng phút, thì hỏi làm sao huyết áp tăng cho được? Bệnh huyết áp làbệnh tây y bảo không chữa được. Chúng ta chưa có bằng chứng nhưng vớinhững gì biết được chúng ta có thể chắc chắn rằng người giác ngộ khôngbao giờ tăng huyết áp. Các bác sĩ tim mạch hẳn cũng đồng ý điều này. Vàkể từ đó ta sẽ có những giấc ngủ luôn thật ngon, đặc biệt là không baogiờ mộng mị. Ngài A-nan khi kể về những giấc mơ của mình cho Phật nghePhật cũng bảo rằng chư Phật ngủ chẳng mơ bao giờ. Không có bất cứ mộtgiấc mơ nào dầu tốt hoặc xấu, dầu lành hoặc ác xuất hiện trong giấc ngủngười giác ngộ.

Đây là cái phần nhô lên nhỏ nhoi của tảng băngtrôi; cái phần lớn nhất, quan trọng nhất, tinh hoa nhất của nó vẫn chìmdưới nước chưa được biết đến. Chỉ với một chút có thể nhận thấy nàychúng ta đã có thể tin rằng nó rất thật.

Với giả định này chúng ta có thể tạm tin rằng ngườitrong một chốc giác ngộ sẽ tự nhận thấy những chuyển biến kỳ lạ chưatừng biết đến xảy ra trong cơ thể mình. Nó rõ ràng như ngài Huệ Khảnói, "Nó thường biết rõ ràng, ngôn từ nói không tới!".Nó thấy được sờ sờ như ngài Huệ Năng nói "Ai dè...",nó cũng tràn đầy xúc cảm như ngài Bạt Tụy đã đi không vững, húc đầu vàocột nhà mấy lần, về đến nhà khóc suốt ba đêm ba ngày vì nó. Thiền sư VôMôn Huệ Khai sau sáu năm miên mật, một ngày nọ khi nghe tiếng trống báogiờ cơm trưa sư hoát nhiên đại ngộ và ứng khẩu bài kệ sau: Trời quangmây tạnh sấm dậy vang lừng. Mọi vật trên đất, mắt bỗng thấy hết. Muônhồng nghìn tía cúi đầu làm lễ. Núi Tu-di cũng nhảy múa vui mừng. Sưđược Thiền Sư Nguyệt Lâm ấn chứng. Khi mà mô tả cái khác biệt của mìnhtrong giây phút trước và giây phút sau bằng những hình ảnh như thế, sấmdậy vang lừng, núi Tu di cũng nhảy múa, thì ta biết đó là những cảmgiác rất cụ thể rõ ràng như thấy trước mắt, sờ bằng tay, hoàn toànkhông có một chút nào của tâm thức. Nó không giống như Archimede hoặcNewton reo lên sung sướng nhưng rất dễ đột tử vì vỡ tim hoặc tai biếnmạch máu não, người giác ngộ thì khác hoàn toàn.

Và ở cái trạng thái này thì sự vô minh hay giác ngộ,niết bàn hay địa ngục, thánh hay phàm, ma hay Phật, sân si hay buôngxả, ngã hay vô ngã, thế giới vật chất là thường hay vô thường... nào cógì quan trọng! Mỗi phút giây là mỗi ân sủng mà tạo hóa đã ban cho. Cácphép thần thông cũng đâu có gì là quan trọng bởi bản thân họ là mộtthần thông tuyệt diệu nhất. Trong trạng thái tĩnh lặng, yên vui ấy taita sẽ nghe tất cả âm thanh kỳ diệu của tạo hóa, từ tiếng chim hót đếnđiệu nhạc disco inh tai nhức óc, từ tiếng của chồi cây đang vươn lênđến âm thanh của các vì tinh tú xa xôi. Năm 761 vua Túc Tông nhà Đườngthỉnh Huệ Trung đến kinh đô phong làm Quốc sư. Suốt trong lần yến kiếnvua đã hỏi ông nhiều câu, tuy nhiên ông không hề nhìn vua lấy một lần.Vua giận mới bảo: "Trẫm là Thiên Tử nước Đại Đường, sao thầy không một lần hạ cố nhìn đến trẫm?".Huệ Trung trả lời:"Bệ hạ có nhìn thấy hư không trên kia chăng?". "Có"."Hư không có nháy mắt với bệ hạ không?".Cái tâm thế hoàn toàn không thuộc về ý thức nhưng biết rõ là mình đồngvới vũ trụ, hòa với cỏ cây rất thật ấy, khoa học hiện đại, tâm lý họchiện đại hoàn toàn chưa biết đến.

Có thật vậy không, không biết, chỉ có một điều chắcchắn là ta sẽ nghe rõ nhất những tiếng nói từ trong của cơ thể ta.Chính đây là bí ẩn của các bậc giác ngộ. Gần như tất cả đều biết giâyphút mình ra đi và tất cả đều bình thản đón nhận. Nói như vậy là đã hơixa cách, ở trạng thái này thì cái chết và cái sống không hề có phânbiệt. Hay một điều là nó không cần đến một chút nào của ý thức để xáctín điều đó. Chúng ta, người đời vẫn hay nói về sự thanh thản khi chết,chuẩn bị cho cái chết, xem cái chết tựa lông hồng, thế nhưng xem cáichết như đang sống mà không cần đến một chút ý thức nào thì chỉ có ởngười giác ngộ .

Tóm lại, đó vẫn là chuyện... như là chúng ta xem phim khủng long! Tất cả dựatrên một ít "xương cốt"hóa thạch để lại chứ khủng long sống thế nào, kêu rống thế nào thìchẳng ai biết. Các nhà khoa học đang tìm cách tái sinh nó. Giác ngộcũng vậy, các Phật tử đều đang chờ Như Lai xuất hiện mặc dầu tinh thầnPhật giáo không xem điều đó làm trọng.

Hình như đã đến lúc con người bắt đầu hiểu được giátrị của mặt bên kia trong hoạt động của bộ não, mặt tĩnh lặng, khônghoạt động nhưng lại vô cùng tỉnh thức. Con người đã nghĩ ra hằng trămphương pháp thể dục cho cơ thể, thế nhưng một phương pháp thể dục chotinh thần thì hầu như chưa ai nghĩ đến. May sao con người đã có phươngpháp thiền định từ hơn 2500 năm trước, tuy bị lãng quên hoặc ngộ nhậnnhiều điều nhưng cuối cùng chắc chắn nó sẽ có những đóng góp tích cựccho cuộc sống và văn minh nhân loại trong thiên niên kỷ thứ ba này.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/04/2024(Xem: 281)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 223)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 1374)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 2580)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 1161)
Thông thường người ta vào học Phật ít nhiều cũng do có động lực gì thúc đẩy hoặc bởi thân quyến qua đời, hoặc làm ăn thất bại, hoặc hôn nhân dở dang v.v... nhưng cũng không ít người nhân nghe giảng pháp hay gặp một quyển sách khế hợp căn cơ liền phát tâm tu hành hay tìm hiểu học Phật pháp. Phần lớn đệ tử xuất gia hoặc tại gia của Hòa Thượng cũng vì cảm mộ pháp giải của Ngài mà quy y Phật. Quyển vấn đáp này góp nhặt từ những buổi giảng thuyết trong các chuyến hoằng pháp của Hòa Thượng, hy vọng cũng không ngoài mục đích trên, là dẫn dắt người có duyên vào đạo hầu tự sửa đổi lỗi lầm mà giảm trừ tội nghiệp.
20/01/2024(Xem: 1239)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 1775)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 4994)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 11100)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
13/12/2023(Xem: 10375)
Đức Phật của Chúng Ta (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567