Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lời Phật dạy và khoa học

01/04/201321:21(Xem: 4020)
Lời Phật dạy và khoa học

LỜI PHẬT DẠY VÀ KHOA HỌC

Sau đây là một số lời Phật dạy đối chiếu với sự tìm hiểu của các nhà Khoa học:

I )- Vi sinh vật, âm thanh

1)- Vi sinh vật:

Khi Phật trông thấy các Tỳ-kheo dùng gáo múc nước sạch trong chum (lu, vại, khạp đựng nước) để uống, Ngài dạy: “Các ông phải niệm chú trước khi uống nước ấy, vì trong nước đó có nhiều sinh vật rất nhỏ bé”.Rồi Ngài dạy các Tỳ-kheo đọc câu chú: “Án chạ tất ba ra ma ni tóa ha, Án chạ tất ba ra ma ni tóa ha, Án chạ tất ba ra ma ni tóa ha”.(Có sách lại ghi là Án địa lị nhật lị sa ha”)Ngài dạy: “Mỗi lần uống nước đều nên đọc câu chú ấy ba lần để chúng-sanh nhỏ bé ấy được siêu thoát”.

Ngày ấy, cách nay trên 2500 năm, không ai thấy hoặc biết được trong nước có sinh vật nhỏ bé. Cho tới khi khoa học phát minh ra kính hiển vi cách nay hơn ba trăm năm. Họlấy một giọt nước trong vắt ra soi bằng kính hiển vi, người ta thấy rằng trong nước ấy có sinh vật bé nhỏ mà mắt thường không thấy được, và mới tin rằng trong nước có sinh vật nhỏ bé.

Theo quyển Đạo Phật và Khoa Học, trang 126 ghi: “Vào thế kỷ thứ 17, nhà sinh vật học Aton VanLeeuwenhock (1632-1723) đã khám phá nhiều loại Vi sinh vật (Micro-organism) trong nước, trên không, dưới đất, trong cơ thể v.v… như sinh vật đơn bào (Protozoans),vi trùng (microbes), thực vật không chân không lá, tảo trong nước (algae,fungus), vi khuẩn (bacteria), sinh vật bé nhỏ hơn vi khuẩn (virus), ...”.

2)- Âm thanh.

Có một lần Phật bảo các Tỳ-kheo: “Âm thanh của ta,các ông, và của mọi người không mất, nó sẽ còn mãi mãi”.

Ngày naychúng ta đã giữ được âm thanh, có đài phát thanh, truyền hình, vô tuyến điệnthoại, băng, đĩa, CD... Ngoài ra, các nhà khoa học còn cho biết họ đã nhận đượcnhiều tín hiệu từ rất xa ngoài hành tinh của chúng ta, mặc dù chưa tín hiệu nàođược xác nhận chính thức...

II )- Hiện bóng, ngửimùi

1)- Hiện bóng:

Quyển ĐạoPhật và Khoa Học, tác giả Minh-Giác đã khéo nhìn thấy chỗ Kinh nói, trang 149viết:

- Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ, trang 24-27 kể rằng khiđức Phật cho bà Vi-Đề-Hy, chánh hậu của vua Tần-Bà Sa-La coi cảnh cõi nước chưPhật hiện bóng rõ nơi tòa quang minh, rất rõ ràng và nghiêm đẹp... Như vậy chữhiện bóng tức là hình ảnh hiện lên, và tòa quang minh tức là màn ảnh; Đức Phậtbảo bà chọn nơi ưa thích, thì rõ ràng là một màn ảnh của băng video ( hay DVD)v.v...

- Trong Kinh Duy-Ma-Cật, khi Phật bảo Ngài Duy-Ma-Cậtthị hiện cõi nước Diệu-Hỷ có Vô-Động Như-Lai, các Bồ-Tát, và đại chúng nước ấycho đại chúng xem. Ngài Duy-Ma-Cật liền lấy tay phải trấn cõi nước Diệu-Hỉ đểvào cõi Ta-Bà, cõi Ta-Bà không thấy chật hẹp, vẫn y nguyên như trước. Qúy vịthấy thần thông của chư Phật và đại Bồ-Tát Duy-Ma-Cật rõ ràng là những máytruyền hình. Thí dụ ta mở máy truyền hình để xem trận đấu quốc tế có hàng nghìnngười coi trận đấu trên một sân banh rộng lớn, sân banh rộng lớn và hàng nghìnngười coi đâu có chèn ép gì mình, dẫu cho cả nước Mỹ hay cả thế giới chiếu lênmàn ảnh đó, những quang cảnh to lớn đem bỏ vào phòng mình đâu có chật?

2)- Ngửi mùi:

- Đức Phật dạy:

Kinh Pháp-Hoa Phật dạy: “Người thụ trì Kinh này trọn được tám trăm công đức sẽ ngửi được trămnghìn thứ mùi trong Tam Thiên Đại Thiện thế giới”.

- Về Khoa học:

Quyển ĐạoPhật và Khoa Học, trang 72 ghi: “Ngày nay các nhà khoa học đã chế được máy ngửimười nghìn thứ mùi khác nhau”.

III )- Lân hư trần, Cấutạo Vạn Vật.

1)- Lân hư trần

- Đức Phật dạy:

“Nếu lấy một vật chia chẻ mãi tới còn bằngđầu sợi tóc, gọi là mao trần. Lấy hạt bụi bằng mao trần này chia chẻ còn bằnghạt bụi bay trong hư không, gọi là khích du trần. Hạt bụi bay lại chia chẻ nữathành vi trần nhỏ, rồi hạt vi trần nhỏ này lại chia ra nữa cho tới khi khôngcòn chia được nữa, gọi là cực vi trần, lân hư trần” (Kinh Lăng-Nghiêm củaHòa-Thượng Thích-Duy-Lực dịch, trang 103).

Ngài dạytiếp: “Không bao giờ tìm cầu được thựctại cuối cùng của vật, vì những vật mà ta thấy chỉ là tổng tướng ảnh tượng đượckết hợp bởi vô vàn vô số những cực vi, nó xuất hiện trong biên giới giữa vật vàtâm, nó hiện diện khắp nơi; hư không, không phải là không có gì, mà trong đó cóđủ loại quang minh cùng các loại chúng-sanh cư ngụ”(Đạo Phật và Khoa Học,trang 14, 20, 21).

- Về Khoa học:

Các nhà khoa học (Đạo Phật và Khoa Học,trang 13) đã tìm ra từ phân tử tới nguyên tử mà Neil Bohr (1885-1950), Vật lýgia Đan-Mạch là một trong những khuôn mặt sáng giá trong việc đề xướng thuyếtnguyên-tử. Nguyên tử trong đó có Dương điện tử (Proton), Trung hoà tử(Neutron), và Âm điện tử (Electron) chạy chung quanh.

Nhưng nhàkhoa học Muray Gellman cho rằng Dương điện tử và Âm điện tử còn có hạt vi phângọi là Quark hay là cực vi, hạt ảo.

Nhà khoa họcPam Dirac thì nói: “Chân không sinh diệt”,còn nhà khoa học Eddington cho rằng “Vũtrụ là một tâm tưởng lớn”.

Nhà bác họcvật lý nổi tiếng Albert Einstein (1879-1955) người gốc Đức nói: “Vũ trụ phân tích đến cùng chẳng còn gì làvật chất mà chỉ còn lại là những rung động hay những làn sóng mà thôi”.

LỜIBÀN

Xem như vậy,lời Phật dạy về vi sinh vật, âm thanh, hiện bóng,ngửi mùi từ hơn hai mươi lăm thế kỷ đã được chứng minh; còn Phật nói cực vi trần, lân-hư-trần,quang minh v.v..., mà các nhà khoa học khám phá ra Nguyên-tử, Cực vi, Hạt ảo,làn sóng v.v... đâu có khác gì nhau.

2)-Cấu tạo VạnVật:

- Đức Phật dạy:

Cấu tạo của con người và vạnvật đều do Tam Tế Tướng của A Lại Đa Thức mà thành. (A Lại Đa Thức là thức thứtám của chúng ta, nó chứa đựng mọi kimh mghiệm của đời sống chúng ta, và nguồngốc tất cả hiện tượng tinh thần.)

Tam tế tướng của A Lại ĐaThức gồm có Nghiệp tướng, Cảnh giới tướng và Chuyển tướng; tuy ba nhưng chỉ làmột, một mà là ba, vật chất và tinh thần đều là một thể.

- Về Khoa học:

Các nhà Khoa học cho biếttrong vũ trụ chỉ có ba thứ, đó là Năng lượng (Energy), Vật chất (Matter) và Tintức (Information, News); do ba thứ này mà sinh vũ trụ, con người và vạn vật

LỜI BÀN:

Ở đây, chúng ta thấy có sựăn khớp giữa lời Phật dạy và Khoa học, đó là:

- Phật nói Nghiệp tướng, nhà Khoa học gọi là Năng lượng,

- Phật nói Cảnh giới tướng, nhà Khoa học gọi là Vật chất,

- Phật nói Chuyển tướng, nhà Khoa học gọi là Tin tức.

Như vậy, chúng ta không cònnghi ngờ những lời Đức Phật đã nói, vì đã được các nhà Khoa học có cùng quanđiểm như thế; tuy nhiên điều mà Đức Phật nhấn mạnh, đó là “Vật chất và tinh thầnđều là một thể”, nghĩa là trong vật chất có năng lượng, trong năng lượng có vậtchất và có cả tin tức nữa, tức là một mà là ba, ba mà là một, điều này nhà Khoahọc vẫn chưa tìm ra.

IV - Thế giới: Qủađất

- Lời Phật dạy:

Rất nhiều lầnPhật nói đến thế giới này có 6 phương gồm Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, và Dưới; hoặcPhật nói 10 phương gồm Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông-Bắc, Tây-Bắc, Đông-Nam,Tây-Nam, Trên, và Dưới.

Trong bộTrường-A-Hàm, quyển 2, trang 503, đức Phật nói:

- Lúc mặt trời giữa trưa ở châu Diêm-Phù-Đề, thì ở châuPhất-Vu-Đãi mặt trời lặn.

- Khi ở châu Câu-Da-Ni mặt trời mọc, thì ở châuUất-Đan-Việt là nửa đêm.

- Khi ở châu Câu-Da-Ni mặt trời ở giữa trưa, thì ở châuDiêm-Phù-Đề mặt trời lặn.

- Khi ở châu Uất-Đan-Việt mặt trời mọc, thì ở châuPhất-Vu-Đãi là nửa đêm.

- Khi ở châu Uất-Đan-Việt mặt trời giữa trưa, thì ở châuCâu-Da-Ni mặt trời lặn.

- Khi ở châu Phất-Vu-Đãi mặt trời mọc thì ở châuDiêm-Phù-Đề là nửa đêm.

- Khi ở châu Phất-Vu-Đãi mặt trời ở giữa trưa, thì ởchâu Uất-Đan-Việt mặt trời lặn.

- Khi ở châu Diêm-Phù-Đề mặt trời mọc, thì ở châuCâu-Da-Ni là nửa đêm.

Nếu giỏitoán hình học không gian, có thể nhìn vòng tròn theo kim đồng hồ: Diêm-Phù-Đề,Ca-Da-Ni, Uất-Đan-Việt, Phất-Vu-Đãi, và hình dung trái đất quay quanh mặt trời,sẽ thấy Phật đã chỉ trái đất tròn.

- Về khoa học:

Quyển ĐoLường Vũ Trụ (Measuring the universe), trang 26 cho biết thời Trung cổ về trướcở Âu-Châu, người ta cho rằng trái đất là trung tâm vũ trụ và không di chuyển.Vấn đề này có liên quan đến khoa học, và đã có nhiều sách trình bày sự việc; sốlà một số nhà khoa học cho rằng không phải như thế nên đã viết sách nói lênquan điểm của mình như Nicholas Copernicus (Phần-Lan), Giordano Bruno (Ý) vàGalileo Galilei.

1)-Quyển Cấu Tạo Vũ Trụ (TheStructure of The Universe) của Paul Halpern, trang 19 viết:

Nhà khoa học Phần-Lan, Nicholas Copernicus(1473-1543): “Năm 1543 Copernicus phổ biến công việc quan trọng nhất. Ông chỉra rằng trái Đất và năm hành tinh khác theo những đường quay quanh mặt Trời, sauchót ông viết rằng chỉ có mặt Trăng là quay quanh trái đất mà thôi; hệ thống(hành tinh) của Copernicus bị coi như phỉ báng bất kính đối với Giáo hội, việcnày đã che bóng tối lớn trên khoa học một thời gian khá dài”. (Nicholas releasedin 1543 his most important work, he printed out that Earth and five then-knownplanets follow simple circular path around the Sun... Finally, he wrote thatthe Moon alone orbits the Earth. The Copernican system was consideredblasphemous by the Church, which cast its long shadow over science for quitesometime)

2)-Quyển Những Nguồn Gốc (TheOrigins) của Neil de Grass Tyson và Donald Goldsmith, trang 205 viết về nhà khoa họcGiordano Bruno:“. . . Nếumặt trời có các hành tinh phụ thuộc, giống như vậy có thể các ngôi sao với cáchành tinh của nó cũng có đời sống sinh vật đủ loại. Diễn tả quan điểm này dẫntới xúc phạm quyền năng của Giáo-Hoàng đưa Giordano Bruno đến cái chết tại nơibị xử tử (bị trói vào cột rồi đốt) năm 1600”(... If the Sun has aplanetary family, so too might other stars, with their planetary equallycapable of give life to creature of all possible form. Expressing this view ina manner that affronted papal authority brought Giordano Bruno to his death atthe stake in 1600).

Còn quyểnCấu Tạo Vũ Trụ (The Structure of The Universe), trang 21 viết:

Nhà Triết họcngười Ý, Giordano Brunođã xuất bản năm 1584quyển sách “Vô số Vũ Trụ và Vô số Thế giới”, ủng hộ quan điểm của Copernicus vềVũ trụ, Ông còn đi xa hơn nữa, cho rằng không những hệ thống các hành tinh quayquanh mặt trời, mà còn có các hành tinh quay quanh mỗi ngôi sao trong các ngôisao nữa. Ngoài ra ông còn viết rằng các ngôi sao và các hành tinh của chúng thìnhiều vô kể, không thể tính được... Giáo hội ghét ý tưởng của ông hơn là ýtưởng của ông Copernicus, vì sự tin tưởng của ông, năm 1600 ông bị đốt tại nơixử tử ở La-Mã. (Italien Philosopher Giordana Bruno published in 1584 the bookof Infinity, The Universe and The World advocating a Copernican one stepfurther, arguing that not only is there phanetery system around the Sun but thatthere is one around each of the stars. Moreover, he wrote that the number ofstars and planets in the uviverse is infinite...The Church was even morehostile to Bruno idea than it was to those of Copernicus. In 1600 for hisheritical belief, Bruno was burned at the stake in Rome)

3)-Cùng quyển Cấu Tạo Vũ Trụ,trang 22, viết:

Nhà khoa họcGalileo Galilei(1564-1642) nhà Thiên văn học kiêm Vật lý học. Năm1610 ông xuất bản cuốn “Thông điệp về Sao” (The Starry Messenger), trong đó ôngviết về sự di chuyển của các hành tinh, khám phá núi trên mặt trăng, khám phánhiều trăm sao, các điểm (Sunpot) trong mặt trời, trạng thái của hành tinhVenus v.v...

Năm 1632, ôngxuất bản sách, trang 23 ghi: “Luận thuyếtvề thiên văn của Galileo đối thoại Trên Hai Hệ Thống Thế Giới Lớn để thay đổiquan điểm về vũ trụ của mọi người, loại trừ ý tưởng sai lầm về trái đất làtrung tâm vũ trụ. Nhưng quyền lực Giáo hội ở Ý Đại-Lợi cho đó là một tài liệutheo dị giáo, nên đã khinh miệt viết gửi cho ông năm 1616 một lệnh đặc biệt cấmông không được bàn luận đến ý tưởng của Copernicus”.(Galileo s treatise onastronmy dialogue on the Two Great World System was to change forever the wayhumankind view the cosmos, banishing the false idea that the Earth is thecenter of the universe. But the Church authority in Italy it was a heretical document,writen in contempt of an order they had given to Galileo in 1616, speciallyforbiding him to discuss Copernican notions)

“Vì không tuân lệnh sắc chỉ ấy, ông bị đưara tòa án dị giáoxét tội năm 1633.Sau cùng, Galileo bị buộc phải công nhận rằng sách của ông đã bị một số đọc giảhiểu lầm là giống như tư tưởng của Copernicus. Ông đã xin lỗi cho những lỗi lầmsơ xuất và đề nghị sửa lại những sai lầm trong sách của ông!... Ông bị bắt giữtại nhà và chẳng còn viết gì về Vũ trụ nữa, năm 1992, sau 350 năm sau khi ôngchết, ông được miễn tội bởi Giáo-hoàngJohn Paul 2”.(For his disobedience of this edict he was brought beforethe Inquision in 1633. Finally, Galileo was press to admit that his book couldbe contrued by some readers as Copernican. He apologized for this oversight andoffered to amend the book... Galileo spent his last years under house arrest,and never wrote again on cosmology. In 1992, 350 years after his death, he wasexonerated by Pope John Paul 2).

Tất cả: những sự kiện trên đây là những sựđáng tiếc đã qua rồi, chỉ còn là những kỷ niệm; ngày nay, mọi người ca tụng cácnhà khoa học đã, đang, và sẽ mang lại sự tiến bộ cho nhân loại.

Quyển ĐoLường Vũ Trụ (Measuring the universe), trang 20, các nhà khoa học cho biết:

- Chu vi trái đất là24,608 miles (39,690 cây số).

- Đường kính quả đất là 7,850 miles (12,631km).

Quyển ThiênVăn Học và Không Gian (Astronomy & Space), trang 14 cho biết như sau:

- Đường kính mặt Trời: 1,400,000 Km = 875,000 miles.

- Trái Đất cách mặt trời: 150 triệu km = 93 triệu miles.

- Mặt Trăng xa trái Đất: 384,400 km = 240,250 miles.

- Các Hành tinh đều quay quanh mặt trời ...

LỜI BÀN:

Con người hiểu biết nông cạn, khi người cóquyền hành thường hay áp chế áp đảo người khác, cho rằng tất cả điều gì mình nóira đều đúng, nên mới có cảnh hà hiếp bắt phải tuân theo những điều phi lý, bắtphải tin theo những điều không thể chứng minh được.

Ngày nay nhân loại đã tiến bộ rất nhiều,khoa học đã mang lại ánh sáng văn minh đáng kể. Sự tự do dân chủ của con ngườiđược nêu cao và tôn trọng. Những Chân lý mà Đức Phật nói đã được Khoa học chứngminh, đúng lý những lời nói của Đức Phật phải được Nhân loại tôn vinh tôn trọngmới phải lẽ, nhưng không hoàn toàn đúng như thế, tại sao? Vì sự si mê tăm tốicủa con người không dễ gì thức tỉnh được, vì quyền lợi riêng tư, vì sống trong íchkỷ, vì ngạo mạn cố chấp ý kiến của mình. Đức Phật nói: “Thương thay cho nhữngkẻ si mê, vì si mê nên họ đã hành động điên đảo”.

V )- Tam Thiên ĐạiThiên Thế Giới:

Một cõi Phật: Giải Ngân Hà (TheGalaxy).

- Đức Phật dạy:

“Thế giới Ta-Bà nằm trong Tam Thiên đại Thiênthế giới, các thế giới như thế xoay vần thành hoại, quốc độ mà chúng-sanh ở thìgọi là một cõi Phật”.

Trong KinhLăng-Nghiêm, đức Phật dạy: “Vạn vật, vũtrụ được cấu tạo bởi sáu thứ đại là Đất, Nước, Gió, Lửa, Thức đại, và Khôngđại”.

KinhLăng-Nghiêm, Địa-Tạng, và Hoa-Nghiêm, Phật đều dạy: “Quang minh trong hư không xoay vần bởi Phong luân, Thủy luân, Kim luântheo hình chôn ốc và khi quay chậm lại thành sơn hà đại địa và chúng-sanh”.

Quán Thế-ÂmBồ-Tát cũng nói trong Kinh Lăng-Nghiêm, trang 389: “Trong Tam Thiên đại Thiên thế giới này có trăm ức mặt trời mặt trăng”.

BộTrường-A-Hàm, quyển 2, trang 265, và quyển Đường Về Bến Giác của Hòa-ThượngThích-Thanh-Cát, trang 75 ghi rõ như sau:

- Một Tiểu Thiên thế giới= 1,000 thế giới.

- Một Trung Thiên thế giới= 1,000 Tiểu Thiên thế giới =1,000 x 1,000 = 1,000,000 thế giới.

- Một Đại Thiên thế giới= 1,000 Trung Thiên thế giới =1,000,000 x 1,000 = 1,000,000,000. (một tỉ)

- Tam Thiên ĐạiThiên thế giới= 3 x 1000 x Đại Thiên thế giới = 3,000 x 1,000,000,000 = 3,000,000,000,000 (Ba nghìn tỉ),các thế giới như thế, xoay vầnthành hoại, quốc độ mà chúng-sanh ở thì gọi là một cõi Phật, như vậy riêng giảingân hà của chúng ta đây đã có ba nghìn tỉ mặt trời.

LỜIBÀN:

Trong TrườngA-Hàm vừa nêu trên nói rằng: “Đại Thiên thế giới cũng là Tam Thiên Đại Thiênthế giới”, người viết cảm thấy không ổn, nếu là Đại Thiên thì nói là Đại Thiên,đủ rồi, còn cần gì phải nói là Tam Thiên Đại Thiên nữa, thành ra chữ Tam Thiênphải hiểu là ba nghìn mới phải lẽ, tức là nói ba nghìn Đại Thiên thế giới, dođó người viết đã ghi Tam Thiên Đại Thiên thế giới = 3 x 1,000 x một Đại Thiênthế giới như trên đã ghi, và đây là một cõi Phật.

Trong quyểnĐạo Phật và Khoa Học cũng cùng quan điểm khi viết nơi trang 133: “Một Tháidương hệ là Tiểu thế giới, một nghìn Tiểu thế giới là một Tiểu Thiên thế giới, mộtnghìn Tiểu Thiên thế giới là môt Trung Thiên thế giới. Một nghìn Trung Thiênthế giới là một Đại Thiên thế giới, một nghìn Trung Thiên thế giới trải qua balần nhân với một nghìn, nên gọi là Tam Thiên Đại Thiên thế giới”.

- Khoa học: Khoa học nói gì vềgiải ngân hà?

Một số nhà khoa học cho rằng vũ trụ (mộtgiải ngân hà), được thành lập bởi thuyết “Vũ Trụ Bùng Nổ” (The Big Bang of TheUniverse); theo thuyết này vũ trụ bùng nổ chỉ trong một phần rất nhỏ của mộtgiây đồng hồ, mọi vật thể, năng lượng, ánh sáng trong vũ trụ được cô đọng trongmột chấm nhỏ hơn một hạt Vi phân Tiềm Nguyên tử. Rồi mỗi Phân tử trong cái Vũtrụ li ti đó bỗng bắn tung toé khỏi những Phân tử khác với tốc độ gần bằng tốcđộ ánh sang; vũ trụ bành trướng rất nhanh vì ở vào thời điểm 1/100,000 của mộtgiây đồng hồ, vũ trụ đã lớn bằng cả Thái dương hệ của chúng ta, bề ngang bằng3.7 tỉ dặm.

Thời gian ngắnngủi lúc đầu, không những chỉ có nguyên tử, mà còn có những hạt Vi Phân TiềmNguyên tử đụng độ nhau dữ dội như Âm điện tử, Dương điện tử, Quang tử trong nồisúp vũ trụ đặc quánh hơn nước đến bốn tỉ lần.

Khi nhữngphân tử này văng khỏi những phân tử khác với một tốc độ nhanh kinh khủng, riàngoài của vũ trụ chạy xa khỏi rià đối diện nhanh hơn tốc độ ánh sáng (vì haibên đều bắn ra xa cùng lúc)”.

Quyển NhữngNguồn Gốc (The Origins), trang 25, 33 cho biết: “Sự thành lập Vũ trụ cách nay 14 tỷ năm. Lúc đầu tất cả không gian, vậtthể, năng lượng của cái gọi là Vũ trụ chỉ bằng đầu mũi kim. Khi đó ở nhiệt độnóng là 10 lũy thừa 50 (10 lũy thừa 9 là một tỷ độ rồi), và chỉ trong thời gian10 lũy thừa -45 của một giây đồng hồ (10 lũy thừa -3= 1/1000) vật thể, nănglượng, không gian, thời gian tác động và tương tác với nhau; những đặc tính tácđộng qua lại này trong biến cố Vũ trụ của chúng ta xẩy ra tất cả những hiệntượng phản ứng hóa học và sinh vật học. Từ đấy tất cả những nguyên tắc căn bảnhiểu biết của chúng ta về trái đất khởi sự”.(Some 14 billion years ago, atthe beginning of time, all space, all the matter and all the energy of the knownuniverse fit with in pinhead. When at 50 degree power of 10 in -45 second powerof 10, matter, energy, space, time behave and interact with one another. Theinterplay of these characters in our cosmic drama underlies all biological andchemical phenomena. Hence everything fundamental an familiar to us earthlingsbegins with).

Quyển Cấu Tạocủa Vũ trụ, trang 120-121, tính toán và tóm tắt thời gian cấu tạo Vũ trụ bằngthuyết “Bùng Nổ”(Big Bang) như sau:

1)- Bùng Nổ: Vũ trụ bắt đầu từ 9 đến 20 tỉ năm.

2)- 1/100000 giây sau khi Bùng Nổ: Dương điện tử, Trunghòa tử xuất hiện.

3)- 1 phút sau Bùng Nổ: Nguyên tử xuất hiện.

4)- 1 năm sau: Âm điện tử hợp với nguyên tử tạo thànhnguyên tố.

5)- 50 triệu năm sau : Các ngôi sao thành hình.

6)- 4-5 tỉ năm cách nay: Các hành tinh thành hình.

7)- 1 tỉ năm cách nay: các loài giun đất xuất hiện. 8)- 248 triệu năm cách nay: Khủng-Long xuấthiện.

9)- 35 triệu năm cách nay: Loài người xuất hiện.

Trước kiaAlbert Einstein và gần đây Fritjof Capra, trong cuốn The Tao of Physics, trang182 nói rằng Vũ trụ không phẳng mà cong. Lúc đầu những

Thiên thể gần nhau, rồi chạy xa dần đi. Ví dụ chúng tachấm (vẽ) những ngôi sao trên mặt một qủa bong bóng nhỏ, nếu bơm bong bóng đólớn dần lên, ta thấy những ngôi sao trên bong bóng cũng xa nhau dần dần; điềunày đúng, vì các Thiên hà kể cả giải ngân hà trong đó có mặt Trời đang chạyxa dần đi.

Aristotle(384-322 trước D lịch), (ĐạoPhật và Khoa Học, trang 214) nhà khoa học kiêm triết học nổi tiếng người Hy-Lạp(sau Phật 240 năm) nói: “Tất cả vạn vật đều được cấu tạo bởi Đất, Nước, Gió,Lửa; những chất này hoạt động nhờ hai lực:

- Hấp lực khiến đất và nước chìm xuống.

- Tính nhẹ phiêu bồng khiến gió lửa lên cao>.

Trong quyểnĐạo của Khoa Vật Lý (The Tao of Phisics) của Fritjiof Capra, trang181 viết: “Những đám mây khinh khí xoay tròn cô đọngthành những ngôi sao, trong khi những đám mây khác phóng ra những vật thể quaytròn hình chôn ốc và cô đọng lại thành những hành tinh chạy chung quanh cácngôi sao”.

Trong quyểnĐo Lường Vũ Trụ (Measuring the Universe), trang 3 ghi: “Giải ngân-hà mà mặt trời (chúng ta) có ở trong đó bao phủ một vùngrộng 3 triệu năm ánh sáng”(Tốc độ ánh sáng trong 1 giây đồng hồ = 300,000km hay cây số).

Quyển Cấu TạoVũ Trụ, trang 66 ghi: “Chúng ta sống ởvòng ngoài của một cánh xoắn chôn ốc của giải Ngân hà”(We live in outerreach of one of spiral arms of the Milky Way)

Thiên văngia Frank Drake cầm đầu chương trình tìm kiếm nền văn minh ngoài địa cầu(Đạo-Phật và Khoa Học, trang 195, 196), phỏng chừng có khoảng 10,000 nền vănminh ở giải ngân hà của chúng ta; Ông ước tính giải ngân hà của chúng ta cókhoảng 400 tỉ ngôi sao, trong đó có khoảng 40 tỉ sao giống mặt trời của chúngta, nhưng chỉ có khoảng 10 tỉ ngôi sao có hành tinh giống như trái đất chạychung quanh. Ông lại nói có khoảng 20 tỉ ngôi sao chạy chung quanh hành tinh.(?)

Trong Bộ SáchGiải Thích Vũ Trụ (The Ilustrated Encyclopedia of The Universe) của Ian Ridpathxuất bản năm 2001 ghi: “Tốc độ của hệthống mặt trời chạy 230 cây số một giây chung quanh trung tâm giải ngân hà vàgiải ngân hà của chúng ta chạy 600 cây số một giây trong không gian”.

Quyển NhữngNguồn Gốc, trang 111, Thiên văn gia dùngviễn vọng kính Herschel Scope quan sát thấy vô số sao trong giải ngân hà khôngthể đếm tính được. Trang 121 ghi: “Tháidương hệ của chúng ta chạy 240 triệu năm một vòng trong qũy đạo của giải ngânhà. Ngày nay đã quay được 20 vòng kể từ khi thành lập, và có lẽ còn 20 vòng nữathì tới thời kỳ sụp đổ”.

Quyển Cấu Tạocủa Vũ trụ, trang 84, Thiên văn gia Allan Sandage của đài thiên văn CarnagieObservatories ở thị xã Pasadera, tiểu bang California nói: “Vũ trụ của chúng ta (Milky Way) có cách nay vào khoảng từ 9 tới 12 tỷnăm”.

VI )- Vũ trụ vô biên,

Thế giới nhiềuhơn cát sông Hằng.

- Đức Phật dạy:

Trong Kinh Lăng-Nghiêm:

“Thế giới nhiềunhư bụi, đều nương sinh trong hư không, những phong luân khi xoay tròn tạo nênsơn hà đại địa”.

Phật cũngthường nói: “Cõi Phật nhiều hơn cát sôngHằng, trong 10 phương thế giới nhiều như bụi không sao tính đếm được”.

Trong quyểnNhị Khóa Hiệp Giải, trang 215, có vẽ và phân biệt:

1- Hoa-Tạng ThếGiới: 20 cõiPhật xếp chồng lên nhau trong một phương là một Hoa-Tạng hay Thế Giới Chủng(chủng: chứa nhiều thế giới trong một liên hoa), tức gồm 20 giải ngân hà chồnglên nhau.

2- NhụyHương-Tràng: 10Hoa-Tạng quây chung quanh một Hoa-Tạng được gọi là Nhụy-Hương-Tràng, tức là 220giải ngân hà.

3- Đại Liên-Hoa:Gồm Nhụy Hương-Tràng ở giữa(đây là nhụy hoa và cuống hoa) biển Đại Hương-Thủy, trong biển Đại Hương Thủycó những Biệt Hương Thủy Hải (Hải: số nhiều vô biên không thể xét lường) nhiềubằng số vi trần trong số 10 lần bất khả thuyết Phật sát (Phật quốc), mỗi BiệtHương Thủy Hải đều có Hoa-Tạng.

4- Hoa-TạngHuyền-Môn,Tỳ-Lô Tánh Hải: Ngoài Đại Liên Hoa (Hoa Sen lớn) vô cùngtận ra, còn có những Đại Liên Hoa khác nữa vì hư không vô cùng tận. (Huyền-Môn: Chỉ có ChưPhật xét hiểu tường tận, Tỳ-Lô Tánh-Hải: Tâm vô biên trong cái hư không vôbiên).

Quyển Nhị KhóaHiệp Giải, trang 191 ghi: Kinh Hoa-Nghiêm ghi lời Phật giảng về thế giới LiênHoa Tạng có cái biển lớn nước thơm tên là “PhổQuang Ma-Ni Vương Trang Nghiêm Hương Hải Thủy”, giữa biển này mọc lên mộtHoa sen rất lớn tên là “Chủng Quang MinhNhụy Hương Tràng”. Trong hoa Nhị Hương Tràng có một tổng hải tên là “Hoa Tạng Trang Nghiêm Thế Giới Hải”,giữa biển đây có những hoa bằng số mười lần “Bất khả thuyết Phật sát vi trần”,trong mỗi một hoa có một “Hương Thủy Hải”, Trong mỗi một biển ấy lại có một hoasen lớn, trên mỗi một hoa sen lớn có hai mươi lớp thế giới theo thứ lớp chấtchồng nhau, lớp dưới bẹp (nhỏ), lên trên nới lần rộng ra.

Cũng quyểnNhị Khóa Hiệp Giải, trang 219 ghi:

“Chỉ nói Hoa-Tạngthì đâu chẳng phải là Tỳ-Lô Tánh-Hải, vì tánh Hải vô biên, nó hàm ở trong hưkhông vô biên, bởi hư không vô cùng tận, thì ngoài hoa sen lớn ra, hẳn còn cóvô cùng tận những Đại Liên hoa nữa đểlàm trang nghiêm, đủ rõ rồi”.

Trong KinhHoa-Nghiêm của Hòa-Thượng Thích-Duy-Lực dịch, trang 110 ghi:

Bụi trần đầy thế giới hoa tạng,

Trong mỗi hạt bụi hiện phápgiới.

Trong KinhHoa-Nghiêm của Hòa-Thượng Thích-Trí-Tịnh dịch, trang 401, Bồ-Tát Phổ-Hiền đãdiễn tả thế giới có hình dạng khác nhau, Ngài nói: “Tất cả thế giới chủng hình dạng đều khác nhau, hoặc hình núi Tu-Di,hình sông, hình nước xoáy, hình chôn ốc; hoặc hình trục xe, hình bàn thờ, hìnhrừng cây, hình nhà lầu; hoặc hình lập phương, hình hoa sen, hình thânchúng-sanh, hình đám mây; hoặc hình Phật ngồi, hình tròn sáng, hình tam giác(hình nón), hình bán nguyệt, hình tròn, v.v..”.

KinhHoa-Nghiêm, trang 377, Ngài Phổ-Hiền Bồ-Tát nói: “Đại Liên Hoa lúc nở ra, lúc héo đi”.

- Về Khoa Học:

Trong quyểnNhừng Nguồn gốc (Origins) của Neil De Grass Tyson và Donald Gold Smith, trang103, trong đó đề cập tới nguồn gốc vũ trụ, các giải ngân hà, các ngôi sao, cáchành tinh, và đời sống, đã gọi vũ trụ là đại vũ trụ (Metaverse), thậm chí họcòn gọi là vô số vũ trụ (Multiverse), vì có qúa nhiều thiên hà, có hằng tỉ, tỉgiải ngân hà. Các nhà khoa học nói: “Chúng tôi gọi vũ trụ phụ thuộc vào cáiliên vũ trụ rộng lớn mà nó bao gồm một sự vô cùng tận vô số vũ trụ (We calluniverse belong to as much larger multiverse which contain an infinite numberof universes), và chẳng vũ trụ nào liên quan tới vũ trụ nào”.

Thiên văngia Edwin Huble sau khi dùng viễn vọng kính của ông quan sát (Đạo Phật và KhoaHọc, trang 195), ông nói: “Có hàng tỉgiải ngân hà và hàng tỉ tỉ tinh tú ngoài giải ngân hà của chúng ta”.

Trong quyểnĐo Lường Vũ Trụ (Measure The Universe), trang 3, nhà khoa học Kitty Fergusonnói: “Vũ trụ mà con người có thể nhìnđược bằng viễn vọng kính rộng từ 8 tới 15 tỉ năm ánh sáng”.

Quyển Cấu TạoVũ trụ, trang 66 viết: “Trước đây cácThiên văn gia nói có khoảng 10 tỉ giải Ngân hà, nhưng nay (1997) có ít nhất là50 tỉ giải Ngân hà!”

Quyển ĐạoPhật và Khoa Học, trang 146 ghi:

Tiến-sĩ EWilliam, giám đốc viễn vọng kính ở Baltimore tuyên bố: “Chỉ nhìn một vùng nhỏ hẹp trong bầu trời khoảng 1/25 của một độ, haychiếm bằng một hạt cát trên cánh tay, thế mà các Thiên văn gia báo cáo đã pháthiện ở nơi đó có từ 1500 tới 2000 Thiên hà”.

Các khoahọc gia nhìn thấy các giải ngân hà nở ra, vì các tinh tú càng ngày càng xa nhaura với tốc độ rất lớn; do đó, họ đã đưa ra thuyết Bùng Nổ (Big Bang). Vũ trụ nổtung cực lớn khiến các tinh tú bắn ra nên ngày càng xa nhau hơn.

Nhưng saumột thời gian: (Đạo Phật và Khoa Học, trang 190), các nhà khoa học khác lại tìmthấy có giải ngân hà khác hình như co lại, vì các ngôi sao lại ngày càng gầnnhau hơn.

Quyển CấuTạo của Vũ Trụ, trang 68 ghi: “Những giải Ngân hà khác nhau hình dáng, to nhỏkết lại với nhau bởi trọng trường gồm nhiều tá (Dozen) các giải Ngân hà thànhChùm Ngân hà (Galatic Cluster), chùm này di chuyển trong không gian không rờinhau”. Trang 118, nói: “Chúng ta giốngnhư con kiến trên qủa bong bóng đang bơm, thấy các chấm trên bong bóng đang xanhau ra, mà chẳng thấy ngoài và trong bong bóng có gì, cũng chẳng thấy bià Vũtrụ; rồi nếu nói có sự bành trướng hay co lại thì phải có trung tâm chứ? NổBùng (Big Bang) làm tung bay đi các ngả, nhưng chỗ xẩy ra Nổ Bùng ở đâu?Eddington phân tích con kiến trên bong bóng trả lời câu hỏi đó”.

Quyển ĐoLường Vũ Trụ, trang 198

Bill Summer(Đạo Phật và Khoa Học, trang 247) cho rằng các nhà vũ trụ học đều sai hết, vìvũ trụ sẽ co rút lớn trong 4 tỉ năm nữa, điều này đi ngược với Thiên văn vũ trụhọc đã đưa ra từ 70 năm nay.

Mới đây,hai nhà Thiên văn học Magaret Geller và John Huchra thuộc trung tâm Thiên vănvật lý Harvard (Harvard Smithsonian Center for Astrophisics) (Đạo Phật và KhoaHọc, trang 196) đã khám phá ra một dây ngân hà lớn nhất chưa từng thấy trướcđây, giải ngân hà này được gọi là “Bức Trườngthành vĩ đại của các giải ngân hà” (The great wall of galaxies). Gồm rấtnhiều giải ngân hà đan thành một bức tường dài 500 triệu năm ánh sáng.

Trong quyểnĐo Lường Vũ Trụ, trang 250 còn ghi: “BứcTrường thành có bề dầy 10 triệu năm ánh sáng, và chiều dài tới một tỉ năm ánhsáng”.

Do đó cácThiên văn gia cho rằng cấu trúc của vũ trụ như lý thuyết khoa học đã nói trướcđây không còn phù hợp nữa về sự Bùng Nổ (Big Bang) để hình thành vũ trụ (ĐạoPhật và Khoa Học, trang 197), vì các giải ngân hà qúa xa nhau nên không một lựcnào có thể tạo nên vũ trụ được. Lý thuyết đó là vũ trụ bắt đầu bùng nổ cách nay15 tỉ năm và bành trướng nhanh chóng thành một hợp chất đồng đều giữa thể chấtvà năng lượng, tất cả thu hút bởi sức hút và trở thành Thiên hà.

Rồi các NhàThiên văn lại loan báo là đã khám phá ra một nhóm các sao lớn chưa từng thấy(Đạo Phật và Khoa Học, trang 198), họ gọi là “Địa lục Thiên hà”(Continents of Galaxies). Nhóm sao này cách tráiđất khoảng 150 triệu năm ánh sáng, nhóm sao này có sức hút vô cùng lớn khiến nólôi kéo hàng triệu các giải ngân hà khác; việc này khiến các nhà khoa học chorằng vũ trụ còn rất nhiều điều chưa biết và vũ trụ qúa phức tạp.

Trưởng toánAlexender nghiên cứu không gian, thuộc viện Carnegie ở Hoa-Thịnh-Đốn(Washington) Hoa-Kỳ đã khám phá ra Địa lục Thiên hà này, tuyên bố: “Nó lớn qúa và che lấp bầu trời làm chẳng aiđể ý đến nó”,còn Thiên văn gia Dresser tin rằng có nhiều Địa lục thiên hànhư thế nữa.

Các nhàThiên văn còn tìm ra một nơi mà họ bảo là “Bảosinh viện tinh tú”(Galactic Nursery) (Đạo Phật và Khoa Học, trang 203),Thiên văn gia Jeffer Haster thuộc đại học Arizona nói: “Những ngôi sao mới đang thành hình ngay trước mắt (qua viễn vọng kínhHubble) chúng ta”.

Trong quyểnĐo Lường Vũ trụ, trang 258, còn ghi thêm: “Đâylà đĩa khí và bụi dầy chừng 500 năm ánh sáng. Nó là chỗ sinh ra các ngôi sao”(This is the disk of gas and dust, only 500 light of years thick. It is thebirthplace of new stars).

Trong quyểnĐo Lường Vũ trụ, trang 248, Thiên văn gia Freidman nói: “Vũ trụ, nhìn mọi phía đều có vô số các giải ngân hà giống nhau”.

Cũng trongquyển Đo Lường Vũ trụ, trang 300, nhà khoa học người Đức Heinrich W Olber (1758-1840),lại phát biểu như sau: “Nếu không giankhông có tận cùng của nó tức là vô cùng tận, và nó chứa vô số kể ngôi sao, thìban đêm bầu trời sẽ sáng như mặt trời vậy”. Ông ta chưa tin là không gianvô biên (đây là thiểu số).

Trong quyểnNhững Nguồn Gốc, trang 125, 127, Trung Tâm Viễn Vọng Kính Hubble chụp vô cùngsâu vào không gian (Hubble Space Scope Ultra Deep Field) năm 2004, có chụp mộtsố hình, một hình chụp giải ngân hà trông giống hệt cái trứng chiên lòng đỏ cònnguyên mà chiên hai mặt, khi ta nhìn theo chiều nghiêng trông giống như đĩabay, nhưng mỏng, chỉ có chỗ giữa lồi về hai phiá như trứng chiên lòng đỏ khôngbể vậy. Một tấm hình khác, trong đó mỗi chấm sáng là một giải ngân hà, có vô sốkể chấm sáng. Các bức hình chụp từ trái đất cách từ 3 tỉ đến 10 tỉ năm ánh sángxa.

LỜI BÀN:

Những điều trình bày trên của các nhàKhoa học chứng tỏ những lời Đức Phật nói từ hơn 2500 năm nay là chính xác, cácnhà Khoa học đã chứng minh bằng mắt thấy trong viễn vọng kính tân tiến nhất củangày nay rằng Vũ trụ vô biên vì không thấy biên giới của Vũ trụ, thế giới vô lượngvì có quá nhiều thế giới đếm không xuể được.

VII )- Thời gian vàkhông gian

1)- Thời gian không gian dungthông:

- Đức Phật dạy:

Kinh Hoa-Nghiêm, Phật dạy:

“Thời gian dungthông không gian, không gian dung thông thời gian”.

- Về Khoa Học:

Quyển ĐạoPhật và Khoa Học, trang 62 ghi:

- Khoa học gia Matt Visser thuộc đại học Washington đãnói về thuyết tương đối của Bác học Albert Einstein: “Einstein đã biến đổi vật lý học bằng cách chứng tỏ rằng không gian vàthời gian thực ra chỉ là hai vẻ khác nhau của cùng một môi trường, có thể giãnra, uốn cong, và vặn vẹo hình thái bởi trọng trường”.

Nhà Bác học AlbertEinstein(1879-1955), Quyển Cấu Tạo Vũ trụ, trang 50 viết: “Thuyết của Einstein khẳng định rằng khối lượng làm cong không gian-thời gian”(Einstein s theory states that mass curves space-time). Bộ sáchGiải Thích về Vũ Trụ ghi, một điểm trong thuyết tương đối (Theory ofRelativity) của ông như sau: “Khi tốc độbằng ánh sáng, thời gian ngừng, khoảng cách không còn, và trọng lượng của vậtbay phải lên tới vô cực(vôcùng lớn) (At the speed of light, time stops, you have zero length, and yourmass is infinite).

Nhà Bác họcEinstein kế luận: “Không thể nào đạt đượctới tốc độ nhanh như ánh sáng(Einstein concluded that you cannot reach the speed of light).

Lý thuyếtnày chỉ áp dụng cho người thế tục, chứ không áp dụng cho bậc Thánh của Phậtgiáo, vì sắc thân của các Ngài là quang minh, sắc tức là không.

2)- Thời gian mau chậm khácnhau:

- Phật dạy:

Nhị Khóa HiệpGiải, trang 205, 206 ghi:

Tuổi thọ và chiều cao của chư Thiên càng lên

cao càng sống lâu và càng cao hơn, như sau:

Tuổi Chiều cao Cách xa

Cõi Vô Sắc:(Kiếp) (Do tuần) (Do tuần)

Trời Phi Phi Tưởng 80,000 Vôhình 22,549 tỉ

Trời Vô sở hữu sứ 60,000 vôhình 11,274 tỉ

Trời Vô biên thức 40,000 vôhình 5,637 tỉ

Trời Không vô biên 20,000 vôhình 2,819tỉ

Cõi sắc giới: (Kiếp) (Do tuần) (Do tuần)

Trời Sắc cứu cánh 16,000 16,000 1,409 tỉ

Trời Thiện hiện 8,000 8,000 705 tỉ

Trời Thiện kiến 4,000 4,000 352 tỉ

Trời Vô nhiệt 2,000 2,000 176 tỉ

Trời Vô phiền 1,000 1,000 88tỉ

Trời Vô tưởng 500 500 44tỉ

Trời Quảng qủa 500 500 22tỉ

Trời Phúc sinh 250 250 11 tỉ

Trời Vô vân 125 125 5.5 tỉ

Trời Biến Tịnh 64 64 2.752tỉ

Trời Vô lượng tịnh 32 32 1.376 tỉ

Trời Thiểu tịnh 16 16 688triệu

Trời Quang âm 8 8 344triệu

Trời Vô lượng quang 4 4 172 triệu

Trời Thiểu quang 2 2 86 triệu

Trời Đại Phạm 1.5 1.5 43triệu

Trời Phạm phụ 1 1 21.5triệu

Trời Phạm chúng 0.5 0.5 10,8 triệu

Cõi dục giới:Tuổi Chiềucao Cách xa

(Tuổi trời) (Dặm) (Dotuần)

Ma LaThiên 32,000 3 dặm 5.4 triệu

Tha Hóalạc 16,000 2.5 2.7 triệu

Hóa lạcThiên 8,0002 1.3 triệu

ĐâuSuất Thiên 4,000 1.5 677nghìn

Dạ MaThiên 2,000 1 336 nghìn

Đạo-LợiThiên 1,000 0.5 168 nghìn

Ghi chú:Một ngày cõi Trời Dục giới = 1năm cõi Trần. Trời Đạo-Lợi sống 1000 năm x 365 = 365,000 năm.

LỜI BÀN

Quyển Nhị KhóaHiệp Giải, trang 206, ghi tuổi thọ cõi Trời Sắc-giới và Vô Sắc giới tính bằngĐại Kiếp. Trong khi bộ Trường A-Hàm, quyển 2, trang 400 lại tính bằng Kiếp, cómột sự khác biệt qúa xa, người viết sau khi cõi kỹ, thấy để Kiếp thì đúng hơn, vì có sự liên tục tuổi tăng từ cõiDục-giới tiếp lên cõi Sắc-giới chứ không tăng nhảy vọt , nên sách này đã ghitheo Đại Tạng Kinh.

Xem bảngliệt kê trên đây, chúng ta thấy các tầng trời càng cao xa, Chư Thiên càng caolớn hơn, và càng sống lâu hơn, theo một tỷ lệ là khoảng cách xa gấp đôi thìchiều cao thân hình cũng gấp đôi, và sống lâu cũng gấp đôi. Một điểm nữa: chúngta cần biết là càng xa mặt đất lên cao, không khí càng loãng dần, hấp lực cũnggiảm đi cho tới chỗ qúa xa thì không còn không khí, không còn hấp lực nữa.

Quyển ĐạoPhật và Khoa Học, trang 48, kể truyện một Tiên nữ lạc xuống Trần gặp một chàngtrai, rồi hai người thương nhau lấy nhau làm vợ chồng. Hai người sống chung vớinhau mười mấy năm hạnh phúc, sinh được hai con. Sau Tiên nữ nhớ cảnh Tiên, lénbay về Trời, Vua Đế-Thích thấy hỏi: “Nàngđi đâu cả buổi khiến ta không thấy?”.

KinhHoa-Nghiêm nói rằng: “Một kiếp ở cõiTa-Bà này chỉ bằng một ngày một đêm ở cõi Cực-Lạc”.

- Về Khoa học:

Bộ sáchGiải Thích về Vũ Trụ viết nhà Bác học AlbertEinsteinnói về sự thay đổi đối với sức hấp lực (Gravitation shift) như sau:

1)- Thời gian nơi có hấp lực (trọng trường hay trọnglực) chậm hơn thời gian nơi không gian không có hấp lực (The time at a pointgravitation field run slower than time in free space).

2)- Đường thẳng trong không gian là Không-Thời (khônggian-thời gian) bốn chiều (Straight line in space is 4-dimensional Space-Time).

3)- Hấp lực được hình dung là một sự uốn cong củaKhông-Thời (Gravity should be a curvature of Space-Time).

4)- Các hành tinh giữ đường quay quanh mặt trời khôngphải do hấp lực, mà bởi không gian conggiữ các hành tinh chuyển động trong đường quay (The planets keep the orbit tothe sun not by gravity but by curvature of space constrains them to move inclosed paths).

5)- Thời gian cần cho ánh sáng truyền đi giữa hai điểmnơi có hấp lực thì nhiều thời gian hơn cho ánh sáng truyền đi cùng một khoảngcách ở nơi không gian không có hấp lực (The Time taken for light to travelbetween two points in the gravitional field is greater than for an identicaldistance in free space).

Quyển ĐạoPhật và Khoa Học, trang 54 viết:

Ví dụ mộtquan sát viên mang theo một cái đồng hồ lên phi thuyền sau khi từ biệt một quansát viên đứng tại chỗ ở dưới đất vào một thời gian nào đó. Rồi người đáp phithuyền trở lại mặt đất và gặp lại người quan sát viên ở dưới đất, vì tác dụngcủa thời gian co giãn, khoảng thời gian của người đáp phi thuyền trôi nhanh hơnthời gian của người dưới đất; nếu người đáp phi thuyền bay trong hai năm thìkhi phi thuyền đáp xuống đất đã trải qua hai mươi năm rồi.

Trang 55viết: Người ta thí nghiệm làm cho một hạt nguyên tử dao động ở tầng thấp nhất,người ta thấy rằng hạt nguyên tử ở tầng thấp nhất giao động chậm hơn là hạtnguyên tử được đặt trên tầng thứ tư của tòa nhà bốn tầng; như vậy khoa học đãchứng minh thời gian nơi không trung trôi nhanh hơn thời gian ở dưới đất, tómlại một ngày ở cõi trời Đạo-Lợi bằng một năm của chúng ta đã được khoa hocchứng minh.

LỜIBÀN:

Ở đây, chúng tathấy lời Phật dạy với sự tìm hiểu, chứng minh, của khoa học, cùng một nhịp đànêm tai. Các nhà khoa học đáng được ca ngợi, vì nhờ họ mà các lời Phật dạy đượcgiải thích, làm sáng tỏ hơn lên, nhất là đối với những người ít tìm hiểu. Việclàm của các nhà khoa học rất cần thiết cho đời sống con người, cần thiết chođời sống tiến bộ, văn minh; nhưng cũng còn vô số điều Phật dạy mà khoa học chưagiải thích được.

VIII )- Những phátbiểu nổi tiếng.

Sau đây là nhữngphát biểu của một số nhân vật nổi tiếng trên thế giới:

1) Albert Einstein

Trong quyển“Phật Giáo dưới mắt các nhà trí thức” (Buddhism in the Eyes of Intellectuals)của Tiến-sĩ Sri Dhammanand, trang 54 ghi: Albert Einstein viết: “Tôn-giáo tươnglai sẽ là tôn-giáo vũ-trụ, Tôn-giáo này siêu việt trên một đấng Thiêng liêngnào đó và tránh hết mọi giáo điều và thần học, bao trùm cả thiên nhiên lẫn tinhthần tôn-giáo. Tôn-giáo này phải căn cứ vào ý niệm đang phát sinh từ những thựcnghiệm của mọi vật, thiên nhiên và tinh thần như một sự thuần nhất đầy đủ ýnghĩa. Đạo Phật đáp ứng được điều đó” (Albert Einstein write: The religion ofthe future will be a cosmic religion. It should trensend a personal God andavoid dogmas and theology. Covering both the natural and the spiritual, itshould be based on a religiuos sense arising from the experience of all things,natural and spiritual, as a meaningful unit. Buddhism answers thisdescription).

Trang 115 ghitiếp: Albert Einstein viết tiếp: “Nếu có một tôn-giáo nào đáp ứng những nhu cầucủa khoa học hiện đại, thì tôn-giáo đó phải là Phật-giáo”. (If there is anyreligion cope with modern scientific needs it would be Buddhism).

Trong quyển“Nền Tảng của Đạo Phật” (Fundamentals of Buddhism), của Tiến-sĩ Peter D Santinaghi: “Nhà Bác-học Albert Einstein trong bài tự thuật rằng ông là người khôngtôn-giáo, nhưng nếu ông là người có tôn-giáo thì ông phải là một Phật tử”.(Albert Einstein remarked that he was not a religious man, but if he were one, hewould be a Buddhist).

Cũng trongquyển Đạo Phật Dưới Mắt Các Nhà TríThức, có các sự phát biểu như sau:

2)- BertrandRussell(trang80) nói: “Trong những tôn-giáo vĩ đại củalịch sử, tôi thích Phật-giáo, nhất là những dạng thức thuở ban đầu, vì tôn-giáonày có ít yếu tố ngược đãi nhất”(Of the great religion of history, Iprefer Buddhism, especially in its nearest forms, because it has the smallestelement of persecution).

3)- H.G. Well(trang 98) nói: “Phật giáo đã mang lại sự tiến bộ cho thế giớivăn minh và văn hóa chính đáng nhiều hơn là bất cứ ảnh hưởng nào khác tronglịch sử của nhân loại”. (Buddhism has done more for the advance of worldcivilization and true culture than any other influence in the chronicles ofmankind).

4)- Ngài Edwin Arnol(trang 115) nói: “Tôi đã thường nói, và tôi sẽ nói mãi nóimãi rằng giữa Phật-giáo và khoa học hiệnđại có quan hệ tinh thần khắn khít”(Sir Edwin Arnol said: I often said,and I shall say again and again, that between Buddhism and modern science thereexists a close intellectual bond).

5)- Egerton C.Baptist(trang117) nói: “Khoa học không thể đưa ra mộtsự đoan chắc. Nhưng Phật-giáo có thể đáp ứng sự thách đố của Nguyên tử, nênkiến thức siêu phàm của Phật-giáo bắt đầu ở chỗ kết thúc của khoa học”(Sciencecan give no assurance herein. But Budhism can meet the Atomic Challenge,because the supramundente knowledge of Budhism begins where science leavesoff).

Và còn rất nhiều sự phát biểu khác màngười viết không thể viết dài them được nữa, rất tiếc!.,.

Toàn Không

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/02/2015(Xem: 7726)
Dĩ nhiên, theo quan điểm của Phật Giáo, không chỉ theo cảm nhận thông thường, có một sự bắt đầu và có sự chấm dứt. Như vậy là hợp lý; đấy là quy luật; đấy là tự nhiên. Cho nên bất cứ chúng ta gọi là Big Bang hay điều gì như vậy đi nữa, có một tiến trình tiến hóa hay một tiến trình của sự bắt đầu. Cho nên phải có một sự chấm dứt. Trong bất cứ trường hợp nào đi nữa, tôi nghĩ sự chấm dứt hay tận thế sẽ không xảy ra trong vài triệu năm nữa. Bây giờ, sự ô nhiễm. Như quý vị biết tôi đến từ Tây Tạng. Khi chúng tôi ở Tây Tạng, chúng tôi không có ý tưởng về ô nhiễm. Mọi thứ rất trong sạch! Trong thực tế, lần đầu tiên khi tôi biết qua ô nhiễm và nghe mọi người nói về rằng tôi không thể uống nước, nó làm tôi ngạc nhiên. Cuối cùng kiến thức của chúng ta được mở rộng.
15/01/2015(Xem: 11712)
Con xin thành kính đảnh lễ và tri ân: -Đức Đạt Lai Lạt Ma,và Hòa Thượng Lhakor cùng Thư Viện Tây Tạng đã hoan hỷ cho phép con được chuyển dịch nguyên tác “The Way to Freedom” từ Anh Ngữ sang Việt Ngữ.
05/01/2015(Xem: 18861)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 16531)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
15/12/2014(Xem: 9291)
Tôi rất vui mừng hiện diện với tất cả quý vị chiều hôm nay. Tôi đã được yêu cầu nói về "Tại sao Phật Giáo?" dĩ nhiên đây là câu hỏi đáng quan tâm, một cách đặc biệt ở phương Tây, nơi mà chúng ta đã có những tôn giáo của chúng ta, vậy thì tại sao chúng ta cần Phật Giáo? Tôi nghĩ thật quan trọng để hiểu rằng khi chúng ta nói về Phật Giáo, chúng ta có nhiều phương diện khác nhau đối với Phật Giáo. Đấy là những gì chúng ta có thể gọi là khoa học Phật Giáo, tâm lý học Phật Giáo, và tín ngưỡng Phật Giáo:
27/11/2014(Xem: 8716)
Oprah Winfrey là một phụ nữ 56 tuổi - một ngôi sao truyền hình Mỹ. Có thể nói Oprah Winfrey là một phụ nữ danh tiếng và có nhiều ảnh hưởng nhất trên quần chúng ở Hoa Kỳ. Năm 2006, chính Oprah đã mang về cho Obama hơn một triệu lá phiếu, thắng Hilary Clinton, để được đảng Dân Chủ đề cử làm ứng viên Tổng thống. Có người cho rằng Oprah có quyền lực mạnh bằng hay hơn 100 nghị sĩ, dân biểu Mỹ.
27/11/2014(Xem: 6336)
Chư thân hữu quý mến, Ở đây, chúng ta đang ở vào cuối năm 2010 - một năm khi Đức Đạt Lai Lạt Ma ở đây với chúng ta, Úc Đại Lợi. Nơi nào mà năm tháng đã đi qua Trong bộ phim Mặt Trời Mọc và Lặn, vừa mới trình chiếu ở Úc Đại Lợi và được quay trong sự phối hợp với Bậc Hiền Nhân Từ Bi và Tuệ Trí của Chúng Ta, Đức Đạt Lai Lạt Ma đã nói về tính tương đối của mọi thứ...
19/11/2014(Xem: 12005)
Văn học là một trong những phương thức biểu đạt tình cảm và trí thức của loài người. Một tác phẩm văn học hay, không chỉ tạo ra tiếng vang rộng lớn tại thời điểm và địa phương nào đó, thậm chí nó có khả năng siêu vượt biên giới thời-không, dẫn dắt nhân tâm bước vào cảnh giới chân- thiện- mỹ. Trong Phật giáo có rất nhiều tác phẩm chính là đại diện cho loại hình này; đặc biệt chính bản thân Đức Phật cũng là nhà văn học tài trí mẫn tiệp, trí tuệ siêu quần.
15/11/2014(Xem: 16573)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
01/11/2014(Xem: 10478)
Trong các kinh tạng, Phật nói nhiều về ‘tam thiên, đại thiên’ thế giới và đa số chúng ta thường hình dung rằng những thế giới này nằm bên ngoài trái đất, thế giới của các vị trời, thần… Vì chưa chứng được thần thông nên chúng tôi không thể nhìn thấy được những thiên giới đó! Nhưng thật ra nếu quán chiếu cho sâu, chúng ta sẽ thấy rằng có những thế giới không đâu xa mà chính ngay bên trong cõi ta bà, nơi mình đang sống.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567