Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bản Chất Của Bệnh

14/09/201200:10(Xem: 3074)
Bản Chất Của Bệnh
hongtim_1
BẢN CHẤT CỦA BỆNH
Dr Bruce Lipton
Chuyển ngữ: Thích Nữ Giác Anh

Thỉnh thoảng cơ thể con người mất đi sự hòa hợp tự nhiên vốn có của nó, những lúc như vậy, cơ thể bị bệnh. Bệnh phản ánh cơ thể bất lực, không duy trì được hệ thống cung cấp chức năng làm việc bình thường. Qua quá trình trao đổi protein, những sự vận chuyển hình thành, những vận chuyển đó xuất hiện cùng với những tín hiệu bổ sung. Có hai nguyên nhân gây bệnh: một là protein có vấn đề, hai là các tín hiệu bị méo mó trục trặc.

Trên thế giới có khoảng 5% trẻ sơ sinh mang dị tật bẩm sinh. Những trường hợp đó xảy ra là do các gen biến đổi làm hư chức năng của protein. Cấu trúc gen biến dạng hoặc protein bị hư khuyết khiến bộ máy cơ thể bị hỏng, từ đó ảnh hưởng xấu đến chất lượng sự sống. Tuy nhiên 95% dân số trên hành tinh này được chào đời với một bản thiết kế chức năng của gen rất hoàn hảo.

Do đa phần chúng ta vốn sinh ra đã hưởng một cơ chế gen di truyền khỏe mạnh và tạo những proteins đúng chức năng như thế, nên có thể nói, nguyên do phát sinh Bệnh nằm ở khía cạnh tín hiệu. Nói sơ lược, có ba trường hợp tín hiệu có thể gây Bệnh và hư hại chức năng.

Đầu tiên là do chấn thương. Khi tủy sống bị chấn thương, tùy theo mức độ nặng nhẹ mà sức chấn động có thể ảnh hưởng đến tín hiệu truyền tin của hệ thần kinh. Từ đó, thông tin liên lạc giữa não bộ và các mô, tế bào cũng như các cơ phận trong cơ thể có thể bị sai lạc, biến dạng.

Thứ hai là do độc tố. Chất độc hoặc các loại độc tố nói chung đều là những hóa chất gây ảnh hưởng nguy hiểm. Chúng bóp méo thông tin giữa hệ thần kinh đến các mô và tế bào trong cơ thể. Những tín hiệu đã bị thay đổi do trúng phải chất độc như thế, có thể ức chế hoặc ngăn chặn những phản ứng bình thường, dẫn đến biểu hiện của Bệnh.

Lý do thứ ba và cũng là nguyên nhân quan trọng nhất ảnh hưởng đến tín hiệu thông tin, dẫn đến Bệnh - đó là Tư Tưởng. Tư Tưởng là hành động của Tâm. Những bệnh thuộc về Tâm không nhất thiết phải do một chỗ nào đó trong cơ thể vật lý có vấn đề, mà bệnh có thể bắt đầu từ đó. Sức khoẻ của con người dựa vào khả năng của hệ thần kinh có nhận lãnh đúng thông tin từ môi trường bên ngoài và chọn cách phản ứng thích hợp với cuộc sống hay không. Nếu Tâm không hiểu đúng tín hiệu từ môi trường và phát ra những phản ứng không thích hợp, lúc đó mạng sống có thể sẽ bị đe dọa vì phản ứng của cơ thể không còn đáp ứng được môi trường nữa. Chúng ta có thể không nghĩ Tư Tưởng không đủ khả năng phá hoại toàn bộ hệ thống, nhưng trên thực tế, nhận thức sai lầm có thể gây tử vong.

Xét trường hợp bệnh nhân mắc chứng biếng ăn (anorexia). Trong khi bà con, bạn bè đau xót thấy cơ thể người bệnh ốm chí tử, chỉ còn da bọc với xương, nhưng chính người bệnh nhìn vào gương thì thấy họ đang mập! Cái thấy sai lầm đó giống trò chơi trong nhà kính phù thủy vậy (funhouse mirror). Sự thật cơ thể đang ốm yếu nhưng vì não bộ phát tín hiệu sai, bệnh nhân lại thấy cơ thể mình quá khổ, nên khiến quá trình trao đổi chất bị cản trở không làm việc được nữa, dẫn đến tình trạng biếng ăn.

Vai trò của não như một bộ máy chính phủ luôn tìm kiếm sự hòa hợp. Tình trạng thần kinh chỉ hòa hợp bình thường khi nào có sự tương đồng giữa nhận thức và cuộc sống.

Não bộ như đài phát thanh, các bộ phận còn lại trong cơ thể là những nơi thu sóng. Các mô, tế bào và cơ phận trong cơ thể không hề đặt nghi vấn những tín hiệu từ não bộ phát ra. Khi nhận tín hiệu từ não, tất cả các đều đáp ứng một cách nhanh chóng ngang nhau cho dù tín hiệu đó đúng hay sai. Vì thế có thể nói chính sự nhận thức của mỗi chúng ta quyết định cuộc sống của chúng ta.

Xét một thí nghiệm khác, một số trẻ em Nhật thường bị dị ứng với một loại cây có độc tố, cây đó giống cây trường xuân (poison ivy-like plant). Cuộc thử nghiệm diễn ra như sau: trên 2 vai của các em sẽ để 2 cái lá, giáo sư nói cho các em biết rõ, một bên là lá cây độc, một bên là lá cây không độc. Đúng như dự đoán, kết quả cho thấy phía bên vai được biết có lá độc, da em nào cũng bị ngứa và ửng đỏ; còn vai bên kia thì không hề có dấu hiệu gì.

Nhưng có một điều các em không biết đó là vị trí thật của những lá cây đó đã hoán đổi cho nhau. Bên nào nói lá độc thì lá đó không độc, nên nào nói là không độc thì bên đó chính là lá độc. Từ đó rút ra bài học đơn giản: nhận thức tích cực nâng cao sức khoẻ, ngược lại nhận thức tiêu cực có khả năng gây ra bệnh.

Xét trường hợp có ít nhất một phần ba trong tổng số các loại thuốc chữa bệnh đều là thuốc giả, đó chỉ là một dạng tâm lý để làm yên lòng bệnh nhân (placebo effect). Như vậy, sẽ có thêm câu hỏi, liệu sẽ có bao nhiêu phần trăm bệnh nhân chịu ảnh hưởng tiêu cực của loại thuốc giả này? Có thể sẽ nhiều hơn chúng ta nghĩ, đặc biệt từ khi các chuyên gia tâm lý ước định có đến 70% tư tưởng của chúng ta đều là những tư tưởng tiêu cực và dư thừa.

______

Giáo sư Bruce Lipton sinh ngày 21 tháng 10, năm 1944 tại Mt. Kisco, New York, Hoa Kỳ. Năm 1971, ông tốt nghiệp văn bằng Tiến sĩ hạng Ưu chuyên nghành Tế Bào Học tại đại học Virginia[i]- Charlottesville, VA. Những nghiên cứu mới về tế bào của ông đã làm ngạc nhiên toàn khối tri thức khoa học trên thế giới. Bấy lâu nay, nghành sinh học luôn đặt nặng vai trò của Gene, nói cách khác, sự phát triển vật lý của con người phần lớn do các gen di truyền quyết định. Tuy nhiên, những nghiên cứu của Giáo sư Bruce Lipton vào những thập niên gần đây đã cho một kết quả gần như hoàn toàn ngược lại lý thuyết đó. Từ môt tế bào gốc (stem cell), ông đem nhân tính (cloning) thành nhiều tế bào giống với tế bào gốc đó. Các tế bào giống nhau đó, ông cho nuôi dưỡng ở nhiều môi trường khác nhau. Kết quả những tế bào đó sẽ phát triển với những chức năng khác nhau. Nếu nuôi dưỡng trong môi trường này, thì tế bào đó sẽ giống tế bào não; trong môi trường khác sẽ giống tế bào xương, trong môi trường khác nữa tế bào gốc ban đầu sẽ tương tự tế bào cơ v.v… Các thí nghiệm cho thấy không phải do gen di truyền mà chính là do môi trường; môi trường đóng một vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của từng tế bào.

Đáng ngạc nhiên hơn nữa trong một thí nghiệm như sau: một tế bào đang mạnh khỏe giữa môi trường đầy đủ dinh dưỡng, nếu đem qua môi trường kém dinh dưỡng hơn, sẽ thấy rõ tế bào đó bị bệnh. Tuy nhiên vẫn không cần dùng thuốc hay hóa chất để chữa, cứ đem tế bào đó trở lại môi trường tốt ban đầu thì tự nhiên bệnh sẽ hết. Thí nghiệm cho thấy sức trưởng thành của tế bào khỏe khoắn trở lại bình thường.

Như vậy, dưới khám phá mới về cơ chế sinh học này, càng xác định con người làm chủ con người hơn nữa. Đứng trên lập trường khoa học, không phải gen di truyền quyết định con người. Xét trên bình diện tâm linh, càng không một ai hay một đấng thần linh nào có thể định đoạt số phận của con người. Con người phát triển theo hướng nào đều do con người chọn lựa. Nhân - Duyên và Quả báu đi chung với nhau. Duyên là gạch nối quan trọng giữa Nhân và Quả. Duyên chính là môi trường. Môi trường tốt hay không tốt đều do con người quyết định. Từ môi trường của thân cho đến môi trường của tâm đều không khác.

Mặc dù tất cả những khám phá mới về khoa học của Giáo sư Bruce Lipton tuy mới đối với nền văn minh khoa học của con người, chỉ vài mươi năm trở lại đây. Nhưng tất cả cũng chỉ là những điều đức Phật đã thuyết hơn 2500 năm qua. Đức Phật dạy “Tam giới duy Tâm, vạn pháp duy Thức”. Tuy nhiên, trong bóng tối nghiệp lực của chúng sanh vẫn rất cần những ánh sáng khoa học như thế này để đưa thêm nhiều chúng sanh hơn nữa, cùng được hòa vào ánh sáng quang minh của chư Phật.

Giáo sư Bruce Lipton là một khách mời rất thường xuyên trên những kênh truyền hình chuyên đề Khoa Học và Tâm Lý tại các quốc gia Âu, Mỹ... Trong những buổi nói chuyện đó, xuyên qua bài học từ các tế bào, ông luôn gửi gắm thông điệp về Sức mạnh của Tâm Thức, Giá trị lòng Từ Bi và Điều kỳ diệu của sự Hòa Hợp. Người ta còn tìm thấy ở ông một niềm tin sâu sắc vào giáo lý Phật Đà. Ngày 1 tháng 3 năm 2011 vừa qua, nhà xuất bản Watkins Books (London, UK) đã vinh danh Giáo sư Bruce Lipton vào bảng 100 Nhân Vật Có Ảnh Hưởng Tâm Linh Lớn Nhất Thế Giới hiện nay. Đó thật là một tin vui cho cộng đồng Phật tử khắp năm châu và chắn chắn những nỗ lực của ông sẽ góp một phần không nhỏ cho nền hòa bình thế giới. Nam mô A Di Đà Phật.

Kỷ niệm mùa An Cư Kiết Đông 2011

Sydney, Pháp Bảo Tự Viện

Thích Nữ Giác Anh chuyển ngữ

Source: www.brucelipton.com

Article: The nature of disease



[i]Thesis Title: Myogenesis in Cell Culture: An ultrastructural study.

(CÙNG TÁC GỈA / DỊCH GỈA)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
30/08/2010(Xem: 5246)
Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiểu lập trường của Phật giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chính trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đều muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì?
28/08/2010(Xem: 52392)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 51719)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
27/08/2010(Xem: 9440)
Theo quan kiến của các luận sư Phật học, kinh điển của Phật giáo Đại thừa, thì phần văn lý hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và linh hoạt như: các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa… được xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung nên giáo lý được phân định theo hai phần: Phương tiện môn và Chân thật môn. Về phương tiện môn, như có lần đức Phật ví pháp đó như nắm lá trong tay đã rời khỏi sự sống, còn sự hiểu biết và diệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn luôn xanh tươi, vận hành theo bốn mùa.
03/08/2010(Xem: 12400)
Mặc dù được xem như là một tôn giáo, thì Phật giáo vẫn là một trong các truyền thống tri kiến vĩ đại nhất của thế giới, được dựa trên cơ sở về trải nghiệm và lập luận hơn là việc tin tưởng không điều kiện vào thần quyền. Trong nhiều thế kỷ, đạo Phật đã đối thoại với các truyền thống khác ở châu Á như là Ấn giáo, Khổng giáo và Lão giáo, đó là các truyền thống vốn có các luận điểm riêng về thực tại. Nhưng đến kỷ nguyên mới này, thì sự thống trị lại thuộc về khoa học hiện đại vốn là một hệ thống truy cứu và tri kiến về thế giới tự nhiên một cách có lập luận, cho nên nếu muốn duy trì vị thế sẵn có như là một truyền thống thực nghiệm và tập luận truy cứu nghiêm cẩn, thì Phật giáo phải đối mặt với khoa học.
20/07/2010(Xem: 15161)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
18/07/2010(Xem: 12732)
Bất cứ người nào có nghiên cứu Phật học, có kiến thức về giáo lý đạo Phật như được ghi trong ba tạng kinh điển, đều thừa nhận đang có một khoảng cách lớn, phân biệt đạo Phật trong kinh điển (mà tôi tạm gọi là đạo Phật lý thuyết) với đạo Phật ở ngoài đời, trong cuộc sống thực tế. Đạo Phật lý thuyết là đạo Phật lý tưởng. Khoảng cách giữa lý tưởng và thực tế là chuyện tất nhiên và tất yếu. Bởi lẽ nếu không có khoảng cách đó giữa đạo Phật lý tưởng và đạo Phật thực tế thì mọi người chúng ta đều thành Phật cả rồi, và cõi đất này là cõi Phật rồi.
18/07/2010(Xem: 13104)
Chúng ta không ai không hấp thụ một nền giáo dục, hay ít ra tiếp nhận một hình thức giáo dục. Thế nhưng chắc chúng ta không khỏi lúng túng khi gặp câu hỏi bất ngờ như trên và khó trả lời ngay một cách vắn tắt trọn nghĩa và trôi chảy.
11/07/2010(Xem: 9945)
Có nhiều bài báo, nhiều công trình khảo cứu công phu viết về con số 0 cả từ thế kỷ trước sang đến thế kỷ này. Quả tình, đó là con số kì diệu. Có những câu hỏi tưởng chừng ngớ ngẩn, chẳng hạn, “số không có phải là con số?”, nhưng đó lại là câu hỏi gây nên những trả lời dị biệt, và ở mỗi khuynh hướng tiếp cận khác nhau, những câu trả lời khẳng hoặc phủ định đều có những hợp lý riêng của chúng. Thế nhưng, hầu như ngoài những nhà toán học thì chẳng mấy ai quan tâm đến con số không; có thể nói người ta đã không cần đến nó từ các nhu cầu bình nhật như cân đo đong đếm.
03/03/2010(Xem: 9832)
Cách đây hơn 25 thế kỷ, vào khoảng 560 năm trước "thời đại hoang mang" (560 BC): từ của LLoyd M. Graham trong cuốn Deceptions and Myths of the Bible), một nhân vật lịch sử với một tiểu sử rõ ràng đã sinh ra đời để mở đường cho chúng sinh thấy, giác ngộ và hội nhập cái biết và thấy của Phật (Khai, Thị, Ngộ, Nhập Phật tri kiến). Nhân vật lịch sử này chính là Thái Tử Tất Đạt Đa, con vua Tịnh Phạn ở miền Nam Népal ngày nay.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567