Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thiền Phật giáo và khoa Sinh học

10/05/201311:50(Xem: 2894)
Thiền Phật giáo và khoa Sinh học

PHẬT GIÁO & KHOA HỌC
Buddhism & Science

Việt dịch:Trần Như Mai

---oOo---

THIỀN ÐỊNH PHẬT GIÁO

và KHOA SINH HỌC
( Buddhist Meditation and Bioscience )

Nguyên tác:U. Aung Thein

Chúng ta cần ghi nhận một điểm thú vị là khi kiến thức khoa học về con người và vũ trụ càng gia tăng thì càng có nhiều bằng chứng được đưa ra để chứng minh giáo lý của Ðức Phật là đúng. Phật giáo là con đường giải thoát do Ðức Phật khám phá ra. Giáo lý đạo Phật được thể hiện qua Tứ Diệu Ðế và Bát Thánh Ðạo. Giải thoát bao hàm sự chấm dứt hoàn toàn vòng luân hồi sinh tử.

Khoa học là việc nghiên cứu một cách khách quan những qui luật của tự nhiên để đưa ra những nhận định tổng quát và lời giải thích cho các hiện tượng đã được quan sát. Như nhà sinh lý học người Pháp Loeb đã nói :” Mục đích tối hậu của khoa học là để tiên đoán”.

Con đường giải thoát do Ðức Phật dạy có thể được mô tả như một dường lối thực nghiệm và dựa trên kinh nghiệm hành trì. Cũng giống như trong khoa học, nhà nghiên cứu tiến hành từng bước một, thì trong Phật giáo, con người cũng tiến đến mục đích bằng cách luyện tập từ từ để từng bước đạt đến chánh tri kiến. Trong Phật giáo, nêu câu hỏi với các bậc tu hành không bị xem là thiếu lễ độ, vì đức tin mù quáng chẳng đưa đến đâu cả. Kiên trì tu tập chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp sẽ chuyển hóa con người để đạt đến tâm thanh tịnh cao thượng và tiến đến mức tột đỉnh là chấm đứt hoàn toàn vòng sinh tử luân hồi.

Bát Thánh Ðạo được chia thành ba phần chính:

Phần thứ nhất là Giới , gồm có chánh ngữ, chánh nghiệp,và chánh mạng.

Phần thứ hai là Ðịnh, gồm có chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.

Phần thứ ba là Tuệ, gồm có chánh tri kiến và chánh tư duy.

Trong Phật giáo, một sự kiện đựơc xem là nền tảng của giáo lý cho rằng tất cả sinh vật hữu tình là một tập hợp của ngũ uẩn gồm có sắc, thọ, tưởng, hành, thức. Năm thành tố này mang tính chất vô thường và lệ thuộc vào nhau, và xuyên qua nghiệp, chúng sẽ duy trì một quá trình vận hành tự động không bao giờ chấm dứt, đưa đến kết quả là một chuổi luân hồi sinh tử kể từ thời vô thủy và vẫn cứ tiếp tục cho đến khi có một phản ứng ngược lại có tác dụng vô hiệu hoá nó và đưa nó đến một trạng thái chấm dứt hoàn toàn hay sự giải thoát tối hậu.

Chúng ta hãy quan sát “con người ngũ uẩn” mà Ðức Phật đã nói là :“Trong tấm thân dài 6 bộ này chứa đựng tất cả những bí ẩn và vấn đề của vũ trụ”.

Trong Kinh Tứ Niệm Xứ và Kinh Ðại Niệm Xứ có nói rằng thân con người là một tập hợp của tứ đại gồm các chất lỏng và chất rắn. Một lần nữa, trong Kinh

“Milinda Panha”, khi trả lời câu hỏi của Nhà Vua, Bậc Ðại Giác đã so sánh thân con người như một tập hợp của các bộ phận rời và bày tỏ ý kiến rằng không có một cái gì gọi là một tổng thể hợp nhất cả.

Theo quan điểm hóa sinh và khoa giải phẩu học thì thân thể con người chỉ là một tập hợp các hệ thống hữu cơ trong đó những quá trình hóa học vẫn diễn biến liên tục. Nó cũng giống như “Cơ cấu trợ động”(Servomechanism) bởi vì, khi một bộ phận bị trục trặc thì toàn bộ hệ thống sẽ bị ảnh hưởng. Khả năng và khuynh hướng của cơ thể là luôn luôn tìm cách tái lập mức ổn định bình thường hay mức độ cơ bản được biết như là “độ thăng bằng tâm lý” ( Homeostasis).

Theo lời dạy của Ðức Phật thì giữ cho thân và tâm ở trong một trạng thái quân bình là điều kiện tiên quyết để duy trì sức khoẻ thể chất, tình cảm và tinh thần rất cần thiết cho việc thực hành thiền định.

Trạng thái quân bình về thể chất, tình cảm và tinh thần đạt được là nhờ thực hành ba thiện hạnh trong phần đầu tiên của Bát Thánh Ðạo. Các thiện hạnh được mô tả trong Thanh Tịnh Ðạo (Ðạo Ðế ) chính là Bát Thánh Ðạo. Chướng ngại đối với thiện hạnh chính là sân hận, độc ác, giả dối, lo âu, ganh ghét, xảo trá, bất mãn, kiêu căng, ngã mạn, lười biếng, tham dục, buông lung phóng dật, hạ liệt, không biết chế ngự các căn. Mục đích của thiện hạnh là để đối trị với những ác hạnh trên .

Bất cứ trạng thái tâm lý nào trong số các chướng ngại nêu trên cũng đều tạo ra sự thay đổi trong mức độ quân bình sinh hóa của cơ thể. Con người càng mất quân bình thì não bộ càng tiết ra nhiều hóa chất như là Acetylcholine, Serotonin, và Epinefrin . Những hóa chất này sẽ tạo ra nhiều tác dụng khác nhau trên các bộ phận của cơ thể như tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận, bộ tiêu hóa và các cơ quan sinh sản. Ví dụ, khi nỗi cơn thịnh nộ, tức giận hay giao động thì não bộ con người sẽ tiết ra chất Epinefrin làm gia tăng huyết áp, tăng nhịp đập của tim và tăng lượng khí oxy cần tiêu thụ.

Những trạng thái tâm lý thông thường khác mà chúng ta thường gặp là sợ hãi và lo âu. Khi con người ở trong trạng thái tâm lý như vậy thì dạ dày và đường ruột sẽ tiết ra một số lượng chất acid cao hơn bình thường, và nơi nào bị acid tấn công thì sẽ sinh ra chứng viêm loét niêm mạc.

Tình trạng căng thẳng tinh thần kéo dài được biết là sẽ làm tổn hại hệ thống tự động của não bộ, tạo nên những ảnh hưởng tiêu cực đến tính nhu động của thực quản và đưa đến tác động có hại cho bộ tiêu hoá và bài tiết. Kết quả là con người sẽ bị táo bón và tự tạo nên tình trạng ngộ độc cho chính mình, như vậy sẽ ảnh hưởng tai hại đến sức khỏe thể chất, tình cảm và tinh thần của cá nhân đó.

Ta có thể hiểu tại sao Ðức Phật nhấn mạnh đến vấn đề thực hành các thiện hạnh như là điều kiện tiên quyết cho việc hành thiền. Hành thiền không thể nào thành công khi cơ thể, tình cảm và tinh thần của cá nhân đó đang bị tổn hại. Người nào đã thực hành các thiện hạnh sẽ có thể thành công trong hành thiền, loại bỏ được những chướng ngại và có thể quán chiếu các pháp hiện tại và cuối cùng có thể đạt được giải thoát. Ba mục tiêu cao thượng ấy có thể đạt được trong bốn giai đoạn của Tứ Thiền.

Giống như trong khoa học, việc thành tựu một mục tiêu khoa học diễn ra từ từ và có phương pháp, cũng vậy việc thành tựu mục đích của Phật giáo qua thực hành thiền định cũng diễn ra từ từ, có thứ bậc và liên hệ chặt chẽ với các trạng thái sinh lý của cơ thể.

Áp dụng một vị trí tọa thiền vững chắc, giữ vững tâm trí không giao động và tập trung tư tưởng tuyệt đối là những điều kiện tiên quyết cho việc hành thiền. Ðức Phật đã hết sức ca ngợi phương pháp quán niệm hơi thở để thanh tịnh tâm mà nhờ đó chính Ngài đã chứng ngộ giải thoát.

Các nhà nghiên cứu hiện đại đã khám phá ra rằng các hành giả trong lúc hành thiền đã giảm mức độ hô hấp, mức tiêu thụ dưỡng khí cũng giảm khoảng 20% và mức thải thán khí cũng giảm.

Những tác dụng sinh lý khác cũng đã được chứng minh là việc giảm thiểu mức độ trao đổi chất trong cơ thể, việc giảm chất acid lactic trong máu đồng thời với việc gia tăng độ pH và việc giảm sút phản ứng co giật của da.

Bằng cách đoạn trừ các chướng ngại pháp sẽ đưa đến kết quả là một trạng thái an tịnh thân tâm, cùng với việc tập trung tư tưởng thuần thục, hành giả sẽ chứng được Thiền thứ nhất. Ðây là một trạng thái ly dục do hoàn toàn chế ngự được các căn.

Bước chuyển tiếp sơ khởi này được xem như là một trong những nhiệm vụ khó khăn nhất mà hành giả cần đạt được trên con đường thiền định.

Sau khi chứng được Sơ thiền, hành giả cố gắng chế ngự các trạng thái của tâm. Nhị thiền vận dụng sức mạnh của tập trung tư tưởng, đó là khả năng định tâm. Ðiều này được biết như là trạng thái nội tỉnh nhất tâm.

Người ta có thể tưởng tượng ra tác dụng lớn lao trên não bộ và những phản ứng hóa sinh của não do thiền định được duy trì trong một thời gian dài , vì trong khoa học người ta đã biết rằng sự luyện tập trong một thời gian ngắn bình thường cũng có tác dụng tạo ra thay đổi trong các đối tượng được thí nghiệm.

Các cuộc thí nghiệm ở WCLA Berkley vào năm 1964 cho thấy rằng các đối tượng thí nghiệm sau khi được cho tiếp xúc với một môi trường học tập phong phú đã phát triển những lớp võ não dày và nặng hơn, và hai hóa chất enzyme của não cũng được ghi nhận là có tổng số hoạt động nhiều hơn . Chúng cũng sản sinh được những thân tế bào não lớn hơn.

Kiến thức thông thường cũng cho chúng ta biết rằng tập trung tư tưởng và nội tâm an tịnh cũng phát sinh các làn sóng. Trạng thái an tịnh này có thể được duy trì lâu dài nhờ phương pháp phản hồi sinh học (bio-feedback).

Các hoạt động tinh thần được biết là có ảnh hưởng đến việc sản sinh chất RNA, chất này có tương quan chặt chẽ với việc tổng hợp chất protein. Cả chất RNA lẫn các phân tử protein được cho là có liên quan đến trí nhớ đoãn kỳ và trường kỳ. Như vậy, trạng thái tinh thần trong lúc hành thiền có thể được xem như là có ảnh hưởng đến việc sản sinh các loại chất RNA và protein đặc biệt. Bác sĩ Penfield trong công trình nghiên cứu về vấn đề kích thích não bộ đã chứng minh rằng phương pháp kích thích não bộ bằng dòng điện có thể giúp con người nhớ đến các kinh nghiệm trong quá khứ. Cũng tương tự như vậy, phương pháp hành thiền với sức mạnh của việc tập trung tư tưởng có thể kích thích hoạt động của dòng điện trên bất cứ nơi nào của não bộ và giúp tăng cường trí nhớ. Vì các chúng sinh hữu tình đã hiện hữu từ thời vô thủy, ta có thể kết luận rằng đối với một vị đã chứng đắc Nhị thiền thì việc nhớ lại các tiền kiếp có thể đạt được xuyên qua cơ cấu hoạt động này của não bộ.

Tam thiền là một trạng thái trong đó hành giả an trú trong thanh tịnh . Vị ấy quán sát các pháp sinh diệt với tâm hoàn toàn khách quan vô tư. Vị ấy đang ở trong một trạng thái năng luợng hoàn toàn quân bình. Vị ấy không cảm thấy quá căng thẳng cũng như quá thư giãn, và vị ấy hiện hữu như một phân tử đang ở trong một dạng năng lượng tối thiểu. Trong trạng thái này, các tiến trình hoạt động của cơ thể con người đòi hỏi ít năng lượng nhất và con người đang đáp ứng chức năng hóa học quan trọng của sự sống, có nghĩa là giảm tình trạng rối loạn cơ thể đến mức tối thiểu. Hành giả trong trạng thái này đã đoạn trừ tâm bất an, lo âu và giao động.

Khi chứng đắc Tứ thiền, hành giả an trú trong một trạng thái vô ưu, kết hợp với định tâm và xả niệm thanh tịnh. Sau khi diệt khổ ưu, xả hỷ lạc toàn cả thân tâm, cuối cùng hành giả đạt đến một trạng thái hoàn toàn vô chấp thủ và giải thoát.

Tôi sẽ kết luận bằng một dẫn chứng liên hệ đến thiền định. Người ta biết rằng sự hiện diện của các ion calcium có ảnh hưởng đến việc truyền đạt tín hiệu của não bộ. Trong lúc hành thiền các làn sóng điện từ được phát sinh vào khoảng từ 7 đến 13 vòng mỗi giây. Nếu các làn sóng điện từ với tầng số này được dùng để kích thích não bộ thì từ các màng tế bào não sẽ phát sinh ra một chất calcium hổn hợp. Những cuộc thí nghiệm không gian gần đây với các phi hành gia trong trạng thái vô trọng lượng kéo dài ngoài không gian đã tạo cho họ những kinh nghiệm mang tính chất tôn giáo hoặc tâm linh.

Số lượng gia tăng các ion calcium được thoát ra do quá trình phân hủy chất calcium của xương sẽ lưu thông trong mạch máu và như vậy có lẽ chúng sẽ đi đến não bộ.

Không có gì là không hợp lý khi kết luận rằng kinh nghiệm tâm linh của Thiền sinh và kinh nghiệm của phi hành gia trong trạng thái vô trọng lượng kéo dài có thể bắt nguồn từ cùng một hiện tượng sinh lý có tên là sự thay đổi lượng calcium hổn hợp trong thần kinh hệ.

Tóm lại, tôi đã cố gắng chứng minh trong bài viết này rằng con đường giác ngộ vượt thời gian của Ðức Phật là một con đường khoa học. Mục đích của Phật giáo và khoa học là khám phá ra qui luật của tự nhiên, và cuối cùng là để đạt đến mục tiêu đã định bằng cách áp dụng những kỹ thuật chính xác.

Ðức Phật đã nói : “Hãy đến và thấy”. Còn bức thông điệp của bài này là : Hãy Hành Thiền, Thực Nghiệm và Thể Nghiệm.

---o0o---


Cập nhật : 07-2003

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/01/2018(Xem: 6757)
Chúng ta biết rằng nhà khoa học Albert Einstein có những quan điểm rất gần với nhà Phật. Nhưng rồi cũng sẽ bất ngờ, khi thấy có lúc Einstein nói y hệt, gần như 100% y hệt như giáo lý nhà Phật. Đặc biệt là khi Einstein viết thư chia buồn một người bạn thân năm 1950... Thí dụ, các pháp là Không. Thí dụ, vạn pháp là thức. Einstein đều nói lên cả hai quan điểm này. Trong Kinh Tiểu Không MN 121, và Kinh Đại Không MN 122, Đức Phật hướng dẫn cách chú tâm từ một nội dung có nhiều dẫn tới nội dung có ít, và từ có ít sẽ bước vào Không để an trú.
08/01/2018(Xem: 5285)
Phật Giáo là Khoa Học Tâm Linh (Jason Gots, chuyển Việt ngữ: Thích Nữ Đức Trí & Thích Nữ Giới Hương) “Đạo Phật nhấn mạnh sư tu tập giúp chúng ta loại bỏ những tà kiến, chứ không phải là nơi tập hợp các hí luận”. (Thích Nhất Hạnh, Trái Tim Của Bụt) Ý Tưởng lớn là gì? Tôi đã có thể dự đoán những lời phê bình. Khoa học thì nói về kinh nghiệm được thực chứng khách quan. Trong khi đó, Thiền Phật giáo, là nói về bạn, sự trải nghiệm chủ quan của riêng bạn trong tâm trí của chính bạn. Tất cả những điều đó có thể gọi là “chứng nghiệm” cho những tác động tích cực của trạng thái thiền, về khả năng vô tận của tâm thức con người như an lạc, từ bi và định tĩnh, vv…
05/01/2018(Xem: 10494)
Sau bài giới thiệu “Đọc Trúc Lâm Thiền Phái tại Huế của Thích Tín Nghĩa” phổ biến tới bạn đọc ngày 7/12/2017, Hòa Thượng Thích Tín Nghĩa lại gửi biếu tôi thêm hai cuốn sách : - Trúc Lâm Thiền Phái Thi Tập tái bản lần thứ nhất 2013. - Đạt Ma và Huyền Trang tái bản lần thứ ba 1998.
21/12/2017(Xem: 7666)
Hôm nay là ngày 9/10/Đinh Dậu, tức ngày 26/11/2017, tại chùa Quang Sơn, xã An Hiệp, huyện Tuy An, tỉnh Phú Yên, thay mặt chư Tôn Đức Tăng hiện tiền, cũng như chư Tôn Đức Tăng Ni Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Âu Châu, các Phật tử của Âu Châu hảo tâm, các nhà mạnh thường quân tại Âu Châu, phái đoàn chúng tôi xin gửi lời thăm hỏi chân tình nhất đến bà con hiện diện hôm nay.
18/12/2017(Xem: 8769)
Thuyết Nhân Duyên_Tuệ Thiền Nguyễn Tối Thiện-2017, Để diễn tả sự liên hệ giữa hai sự vật trong vũ trụ, triết học Trung hoa đưa ra nguyên lý Ngũ Hành bao gồm 5 yếu tố tượng trưng cho năm cơ quan tạng phủ hay năm năng lực khí hóa : Mộc, Hỏa, Thổ, Kim, Thủy. Nguyên lý Ngũ Hành có thể được phát biểu như sau : « phàm cái gì hiện hữu đều có cái sinh ra nó, cái khắc nó, cái nó sinh ra và cái nó khắc, tạo thành một toàn thể 5 yếu tố liên hệ chặc chẻ. » Nguyên lý này áp dụng cho các phần tử (éléments) vật chất hoặc các năng lực khí hóa nhưng nó bị giới hạn trong một đơn vị thời gian nào đó tùy theo sự vận hành của yếu tố vật chất nầy.
15/12/2017(Xem: 77192)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 121714)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15756)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
01/11/2017(Xem: 8909)
Long Thọ hay Long Thụ (Nāgārjuna) không phải chỉ là tổ của tông Trung Quán (Madhyamika),[1] trong lịch sử phát triển Phật giáo ngài được coi là vị Phật thứ hai sau Đức Thế Tôn[2] nên trong các hình tượng bồ tát chỉ có tượng của ngài duy nhất được tạc vẽ với nhục kế (uṣṇīṣa), vốn tượng trưng cho trí tuệ viên mãn như hình tượng Đức Phật chúng ta thường thấy. Truyền thống Phật giáo xuy tôn ngài là người thành lập Phật giáo Đại thừa không phải vì theo truyền thuyết nói rằng ngài đã mang kinh điển Đại thừa từ Long Cung về phổ biến mà vì ảnh hưởng thật sự tư tưởng của ngài trong các tông môn. Cho đến ngày nay, tám tông môn Phật giáo lớn từ Thiền đến Mật của Trung Hoa Triều Tiên Nhật Bản Tây Tạng Mông Cổ nhận ngài là tổ đều truyền bá đến Việt Nam từ lâu. Ở nhiều nước như Tây Tạng, Nepan, Mông Cổ chùa viện tư gia còn đắp tượng vẽ hình thờ phượng ngài như Đức Phật. Ngay tại Ấn Độ, đất nước đã tiêu diệt Phật giáo, người ta vẫn còn tiếp tục hãnh diện phổ biến các nghiên cứu về ngài và tôn kính ng
25/08/2017(Xem: 21356)
Bản Giác (sách pdf) tác giả: Tiến sĩ Lâm Như Tạng
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567