Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Giới thiệu đạo Phật

08/04/201319:30(Xem: 3388)
Giới thiệu đạo Phật

Giới thiệu đạo Phật

Ban Hoằng Pháp

Đạo Phật là một tôn giáo lớn của nhân loại; ảnh hưởng của đạo Phật đối với con người và xã hội mang ý nghĩa rất lớn trong quá trình tiến bộ của con người, và đã tạo nên nền văn hóa nhân bản theo tinh thần của xã hội Á Đông hơn 2.000 năm qua. Đạo Phật đã và đang chinh phục phương Tây một cách nhẹ nhàng đầy tính cảm hóa.Rhys Davids, giáo sư sử học, phát biểu: "Là Phật tử hay không là Phật tử, tôi đã quan sát mọi hệ thống của các tôn giáo trên thế giới, tôi đã khám phá ra rằng không một tôn giáo nào có thể vượt qua được về phương diện vẻ đẹp và sự quán triệt của Bát chánh đạo và Tứ diệu đế của Đức Phật. Tôi rất mãn nguyện đem ứng dụng cuộc đời tôi theo con đường đó”.

Không dừng ở đây, người phương Tây còn hy vọng đạo Phật sẽ làm nền tảng cho tôn giáo của tương lai; nhân loại cần phải có một tôn giáo đáp ứng được nhu cầu sống còn và sự phát triển phù hợp với điều kiện mới của xã hội.Sự tiến bộ quá nhanh của khoa học kỹ thuật đã tạo ra những khủng hoảng xã hội, mất thăng bằng về sinh thái, văn hóa, tâm lý, đạo đức... Albert Einstein, nhà vật lý học, cho rằng: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một tôn giáo toàn cầu, vượt lên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả tự nhiên và tâm linh, nó phải dựa trên một ý thức tôn giáo phát xuất từ thực nghiệm đối với tất cả sự vật tự nhiên cũng như tâm linh, được nhận thức như một thể tổng hợp có ý nghĩa. Nếu có một tôn giáo thích hợp với yêu cầu của khoa học hiện đại thì tôn giáo đó là đạo Phật”.

Đạo Phật có gì đặc biệt mà được sự thiện cảm và ca ngợi của con người thời đại? Có lẽ điều nổi bật ở chỗ đạo Phật là một tôn giáo không có Thượng đế, một nền giáo lý không có giáo điều, đầy tính nhân bản.

Đạo Phật là con đường do Đức Phật tuyên bố, truyền đạt; con đường ấy đã được thực nghiệm, thực chứng. Vậy có thể nói rằng đạo Phật là phương thức sống, lẽ sống, lối sống để có được hạnh phúc chân thật.

Tính cách của Đức Phật được thể hiện qua các kinh điển còn lưu lại, cho thấy Ngài chỉ dạy những gì Ngài đã thực nghiệm, cần thiết cho đời sống thoát khổ.Do vậy, nội dung của đạo Phật không ở nghi lễ, triết học hay thần thoại, mà chính là ở trong lối sống, cách ứng xử đối với bản thân, giữa con người với con người, giữa con người với thiên nhiên vũ trụ.

Mục đích của Đạo Phật

Trước hết cần minh định mục đích của Đức Phật xuất hiện ở đời, trên cơ sở ấy thiết lập mục đích của đạo Phật. Theo Kinh tạng Nguyên thủy, Phật ra đời vì: “Lợi ích, vì hạnh phúc cho chư Thiên và nhân loại” (Kinh Trung Bộ); Kinh tạng Đại thừa, Phật ra đời vì: “Khai thị cho chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến” (Kinh Pháp Hoa). Như vậy, cả hai văn hệ đều khẳng định mục đích của Phật xuất hiện ở đời là vì cứu độ chúng sinh đang bị đau khổ trầm luân.Do vậy, mục đích mà đạo Phật nhắm đến là giúp cho con người xây dựng một cuộc sống anvui và hạnh phúc chân thật. Người Phật tử quy y theoPhật, thực tập hành trì tụng kinh, niệm Phật, nghiên cứu kinh điển, tọa thiền, hành đạo... có mục đích rất rõ rệt là giải thoát khổ đau, thông qua 3 giai đoạn:

1. Điều phục bản năng dục vọng:Điều phục tức là làm chủ được bản thân mình, là chế ngự được tham dục, sân hận, ác ý. Con người khi sinh ra đã mang theo cái nghiệp của đời sống trước mà chủ yếu là tham dục (hay tham ái) như trong Di Đà sớ saonói: “Ái bất trọng bất sinh Ta bà”. Vì nghiệp ái dục nặng nên con người không tự chủ được mà bị điều khiển, bị quy định bởi thế lực của bản năng ấy. Đạo Phật giúp con người vượt thoát sự chi phối của bản năng, thú tính, vốn là một phần rất sâu sắc của con người. Trên cơ sở thoát khỏi sự chi phối của bản năng dục vọng, người Phật tử sẽ đứng vững giữa cuộc đời đầy bất trắc.Người Phật tử có khả năng tự điều phục mình thì dù mưu cầu lợi lộc, công danh, sự nghiệp, xây dựng tình yêu... khi những cái ấy bị thất bại, bị thay đổi, bị phản bội... người ấy vẫn an ổn, vững chãi, không bị ưu sầu phiền muộn, khóc than, phát cuồng, tự tử... Đó là giai đoạn khởi đầu của đạo Phật.

2. Xây dựng cuộc sống hạnh phúc: Sự hạnh phúc tùy thuộc vào rất nhiều vào yếu tố bên trong tâm tư, cảm xúc của con người. Nếu tâm tư của một người bị chi phối, bị chế ngự bởi sự lo lắng, buồn rầu, sợ hãi thì họ không thể có an lạc.An lạc và hạnh phúc đi đôi với nhau; hạnh phúc có hay không tùy thuộc vào thái độ tâm lý ổn định hay không.Một người mạnh khỏe và giàu có, nhưng trong lòng sôi sục dục vọng hay hận thù thì người ấy không thể có sự an lạc và hạnh phúc; một người đầy danh vọng và sự thành đạt mà trong lòng bị lo lắng bất an, sợ hãi chế ngự thì không thể có hạnh phúc được.

Đức Phật dạy rằng, một người đạt được sự thanh tịnh, an lạc là người khi có điều không vui đến, những điều lo âu, sợ hãi đến thì không bị chúng làm chi phối, vướng bận; rằng một người không bị chi phối, vướng bận với các tư duy tham dục, sân hận và ác ý; rằng một người đạt được các trạng thái thanh tịnh như sơ thiền cho đến tứ thiền, như theo lời kinh Pháp Cúdạy: “Không có hạnh phúc nào lớn bằng sự yên tĩnh của tâm trí”.Đây là giai đoạn thứ hai của đạo Phật.

3. Đạt đến giải thoát viên mãn:Đây là giai đoạn sau cùng của người Phật tử: chấm dứt mọi đau khổ, thoát ly sanh tử luân hồi, thành tựu trí tuệ viên mãn. Nỗi khổ thật sự và lâu dài chính là vô minh; niềm hạnh phúc chân thật và vĩnh cửu là sự chấm dứt vô minh, đó là đáo bỉ ngạn, là “vô minh diệt minh sanh”, là tuệ giác có mặt.Đây chính là giai đoạn nhập Phật tri kiến mà trong kinh Pháp Hoanói đến.

Mục đích của đạo Phật có thể chia làm 2 phần: mục đích gần và mục đích xa. Gần là đời sống tự chủ, an lạc và hạnh phúc tương đối; xa là đạt đến an lạc vĩnh cửu Niết bàn.Giáo pháp của Phật giúp con người kềm chế, làm chủ bản thân.Đây là bước đầu, là nền tảng của mọi đức hạnh, mọi tiến bộ, từ đó thực hiện sự thanh tịnh và an lạc của tâm linh, chuyển hóa toàn bộ đời sống đã từng mang bất an và đau khổ . Nói mục đích gần và xa là để dễ hiểu, thực ra cả hai là một.Thực hiện được sự tự chủ là đưa đến an lạc, hạnh phúc.Có được an lạc, hạnh phúc dẫn đến giải thoát Niết bàn và Niết bàn được thực hiện ngay cõi đời này.

Những đặc điểm của Đạo Phật

1. Tự dotư tưởng: Đạo Phật không có hệ thống tín điều, không lấy tín điều làm căn bản như hầu hết các tôn giáo khác. Đức tin của đạo Phật luôn đi đôi với cái “thấy”, một trong những định nghĩa về giáo pháp là “đến để mà thấy” chứ không phải “đến để mà tin”. Vì vậy, con đường thực hành của người Phật tử luôn lấy chánh kiến đứng đầu trong các đức tính.

Lời Phật dạy cho dân Kàlama được các học giả phương Tây coi là bản tuyên ngôn về tự do tư tưởng đầu tiên của nhân loại: “Này các Kàlama, đừng để bị dẫn dắt bởi những báo cáo, hay bởi truyền thống, hay bởi tin đồn. Đừng để bị dẫn dắt bởi thẩm quyền kinh điển, hay bởi lý luận suông, hay bởi suy lý, hay bởi sựxét đoán bề ngoài, hay bởi vì thích thú trong những lý luận, hay bởi những điều dường như có thể xảy ra, hay bởi ý nghĩ đây là Bậc Đạo sư của chúng ta. Nhưng này các Kàlama, khi nào các ông biết chắc rằng những điều ấy là thiện, là tốt, hãy chấp nhận và theochúng” (Tăng ChiI).

Bác bỏ các tín điều và đức tin mù quáng, khuyến khích tự do phân tích, khảo sát, đó là một đặc điểm của Phật giáo.

2. Tinh thần nhân bản:Đấng Thượng đế hoặc Tạo hóa hay các thần linh được con người tin tưởng thờ phụng, vì người ta làm cho mọi người tin rằng các đấng ấy có thể ban phúc hay giáng họa. Thái độ của tâm lý sợ hãi, yếu đuối, mất tự tin đó đã sản sinh ra thần thánh (hoặc đa thần hoặc nhất thần).Con người tự đặt số phận của mình vào tayngười khác, hiểu sai về tác nhân đưa đến đau khổ.

Đạo Phật với chủ trương luật nhân quả, nghiệp báo đã nói lên tinh thần trách nhiệm cá nhân và cộng đồng trước sự đau khổ và hạnh phúc của chính mình.Đức Phật dạy: “Chính ta là kẻ thừa kế của hành động của ta, là người mang theovới mình hành động của mình” (Tạp A Hàm, 135).

Đức Phật không phải là đấng thần linh ban cho ta sự thay đổi hoàn cảnh hay tình trạng khốn đốn của mình. Đức Phật tuyên bố: “Như Lai chỉ là người chỉ đường, mỗi người phải tự đi đến, không ai đi thế cho ai được”. Công trình khơi mở kho tàng tri kiến Phật là công trình của mỗi cá nhân.Con đường tự lực ấy được Đức Phật dạy như sau: “Này các Tỳ kheo, hãy tự mình thắp lên ngọn đuốc của chính mình, thắp lên với Chánh pháp, đừng thắp lên với một pháp nào khác. Hãy tự mình làm chỗ nương tựa của chính mình, nương tựa với Chánh pháp, đừng nương tựa vào một pháp nào khác” (Trường AHàmI).

Tinh thần triệt để nhân bản này là một đặc điểm của đạo Phật.

3. Tinh thần từ, bi, hỷ, xả:Chúng sanh còn khổ thì đạo Phật còn vai trò và vị trí ở cuộc đời; đạo Phật thường được gọi là đạo từ bi, đạo cứu khổ. Ở đâu có đạo Phật, ở đó có tình thương, ở đó hận thù được hóa giải.Bởi lẽ phương châm tu tập của Phật giáo là từ, bi, hỷ, xả, còn gọi là Tứ vô lượng tâm.Người Phật tử lấy từ, bi, hỷ, xả làm nền tảng cho sự phát triển thánh hạnh; tâm từ bi được coi là tâm Phật.

Trong quá trình truyền giáo, đạo Phật chưa bao giờ gây chiến tranh hay đổ máu.Thông điệp tình thương cứu khổ, giúp đời đã được Đức Phật tuyên thuyết ngay từ thời kỳ khai thành lập Giáo đoàn: “Này các Tỳ kheo, hãy du hành vì hạnh phúc cho quần chúng, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài người”.

Tâm từ là khả năng hiến tặng niềm vui cho tha nhân.Tâm bi là khả năng làm vơi đi nỗi khổ đang có mặt.Tâm hỷ là niềm vui, lòng thanh thản do từ bi đem tới. Tâm xả là thưthái nhẹ nhàng, tự do, không kỳ thị. Đức Phật dạy người Phật tử tu tập Tứ vô lượng tâm: “Vị ấy tâm an trú biến mãn một phương cho đến mười phương với tâm từ, bi, hỷ, xả quảng đại vô biên, không hận, không sân... đối với mọi hình thức của sự sống, không bỏ qua và bỏ sót một ai mà không biến mãn với tâm giải thoát cùng với từ, bi, hỷ, xả (Trường BộI)”. Thương yêu đồng loại và vạn loại chúng sanh là chất liệu sống của đạo Phật. Đây là một đặc điểm quan trọng trong đạo Phật.

4. Tinh thần thực tiễn:Một trong những định nghĩa về pháp là “thiết thực hiện tại”, nghĩa là giáo lý đạo Phật là thiết thực, không mơ hồ, mang tính thực tiễn, có tác dụng cụ thể, không phải lý thuyết suông. “Hiện tại” có nghĩa là không chờ đợi kết quả của tương lai, có tu tập là có hướng thượng, có giải thoát ngay hiện tại, đời này.Vì vậy, giáo lý đạo Phật là giáo lý thực nghiệm, không chờ đợi một ânsủng hay một mặc khải nào. Đức Phật thường từ chối trả lời những câu hỏi về những vấn đề siêu hình.Ngài chỉ dạy những gì cần thiết cho cuộc đời, cho con đường thoát khổ.Có lần ở Kosambi, Đức Phật dạy: “Những gì Như Lai biết ví như lá trong rừng, còn những gì Như Lai giảng dạy như nắm là ở trong tay, nhưng đây là những phương pháp diệt khổ” (Tương ƯngV).

Đạo Phật cho rằng phần lớn những nỗi khổ của con người do họ không sống thật với hiện tại, họ thường nuối tiếc quá khứ, mơ tưởng tương lai; do đó, ý nghĩa của cuộc đời bị đánh mất:

Do mong việc sắp tới / Do than việc đã qua / Nên kẻ ngu héo mòn /Như lau xanh lìa cành” (Tương Ưng I).

Hoặc:

Đừng tìm về quá khứ / Đừng tưởng tới tương lai / Quá khứ đã không còn / Tương lai thì chưa tới / Hãy quán chiếu sự sống / Trong giờ phút hiện tại...”(Kinh Trung Bộ).

Tính thực tiễn, thiết thực hiện tại là một đặc điểm của đạo Phật.

5. Tinh thần không chấp thủ:Đạo Phật là giải thoát và tự do; vướng mắc vào bất cứ điều gì cũng đều đưa đến đau khổ. Đức Phật dạy: “Cuộc đời là vô thường, nên nó đem đến đau khổ (vì chấp là thường). Cái vô thường mà ta cho là của ta, là ta thì hoàn toàn không hợp lý”.Giải thoát là vượt thoát mọi ràng buộc, bám víu vào cuộc đời. Nhờ tinh thần không chấp thủ nên thái độ của đạo Phật rộng rãi, bao dung, tinh thần tu tập của người Phật tử rất thoáng.Kinh Ví dụ con rắn (kinh Trung Bộ), Đức Phật ví dụ giáo pháp như chiếc bè để qua sông, không phải để nắm giữ; Chánh pháp như chiếc bè, Chánh pháp cũng phải xả huống là phi pháp. Tương tự, kinh Kim Cangcũng nói: “Giáo lý ví như như chiếc bè qua sông, Chánh pháp cũng phải xả huống là phi pháp” hoặc nói:“Cái gọi là Phật pháp tức chẳng phải là Phật pháp nên gọi là Phật pháp”.

Tinh thần không chấp thủ là nội dung trí tuệ của đạo Phật; tác dụng của tinh thần ấy ngoài sự đem đến giải thoát, còn đem đến sự giải tỏa tất cả mọi áp lực, ức chế của đời sống lên trên tâm lý của con người.Đây là một đặc điểm của đạo Phật.

Sự có mặt của đạo Phật đã đem lại nguồn sinh khí mới cho xã hội Ấn Độ thời ấy, đã mở ra một lối thoát cho con người trước những bế tắc, khủng hoảng về xã hội, về tư tưởng triết học và đạo học. Lời tán dương Đức Phật của người đương thời còn ghi chép lại đã chứng minh điều đó: “Thưa Ngài Cồ Đàm, thật vi diệu, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để cho ai có mặt có thể thấy” (Nikàya).

Trải qua hơn 25 thế kỷ, đạo Phật đã được thử thách, cọ xát với thời gian và không gian; giá trị, tác dụng của đạo Phật vẫn nguyên vẹn. Ngày nay, trước tiến bộ văn minh vật chất quá độ đã xô đẩy con người vào trong hố thẳm của tham vọng, hận thù.Chiến tranh vẫn diễn ra khốc liệt trên thế giới, nghèo đói, bệnh tật, thiên taivẫn đe dọa đời sống của nhân loại. Càng văn minh, con người càng có nhiều nỗi lo lắng, sợ hãi mới: nạn nhân mãn, ô nhiễm môi trường, hủy diệt sinh thái, áp lực kinh tế xã hội đè nặng lên trên tâm trí của con người tạo nên ức chế tâm lý, băng hoại về đạo đức làm mất thăng bằng giữa đạo đức và hưởng thụ. Đạo Phật với con đường thoát khổ thiết thực, nhân bản, với phương châm từ bi hỷ xả, xóa bỏ chấp thủ, hận thù sẽ tiếp tục sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại.

CÂU HỎI ÔN TẬP:

1-Mục đích cơ bản của đạo Phật là gì?

2-Tinh thần tự do tư tưởng và tính nhân bản của đạo Phật được thể hiện qua những đặc điểm nào?

3-Vì sao nói đạo Phật là đạo Từ bi hỷ xả?

4-Một trong những định nghĩa về Pháp là “thiết thực hiện tại”, hãy làm sáng tỏ điều đó.

----o0o----

Nguồn: chuyenphapluan.com

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 6596)
Buổi sáng, trời hơi se lạnh và ẩm ướt âm u, hồi đêm hình như rất gió và ầm ì những tiếng sấm gợi lại những lo sợ xa xôi của thời còn chinh chiến. Nhìn ra khung cửa, đồi cỏ vẫn trải dài thoai thoải, những khu vườn xung quanh đã rực rỡ những đóa hoa xuân.
09/04/2013(Xem: 1051)
Ngược dòng thời gian năm 1984, tôi viết quyển sách đầu tiên ‘Chìa Khóa cho người Tỵ Nạn’ dành cho những người tỵ nạn Đông Nam Á, giúp họ giữ vững niềm tin và hiểu biết tường tận hơn về tôn giáo của mình để đối đầu với các hành động có hậu ý của các nhà truyền giáo Ki tô muốn họ cải đạo.
09/04/2013(Xem: 8641)
Tất cả chúng sanh đều vô thỉ đến nay, vì chấp có thật ngã, thật-pháp mà tạo ra các nghiệp, rồi bị các nghiệp dắt dẫn nên xoay vành mãi theo bánh xe sanh tử luân-hồi. Nếu con người hiểu rỏ một cách chắc chắn rằng: tất cả các pháp trong vũ-trụ, nhân và ngã đều không thật có, chỉ do thức biến hiện, như cảnh trong chiêm bao, mà không còn gây phiền não, tạo nghiệp-chướng nữa, thì tất không còn bị ràng buộc, trong bánh xe sanh tử luân hồi. Để phá trừ hai món chấp thật-ngã và thật-pháp, Đức-Phật có rất nhiều phương-pháp, có rất nhiều pháp thiền, mà Duy-Thức-Tôn hay Pháp-tướng-tôn là một pháp tu rất cần thiết, rất hiệu-nghiệm để đi đến giải-thoát.
08/04/2013(Xem: 22992)
Cuốn sách này gạn lọc trí tuệ hàng ngàn năm của Phật Giáo Tây Tạng, được chuyển tải bằng những từ ngữ đơn giản, dễ hiểu đối với mọi người. Mục đích chính yếu của tôi là trình bày những giáo lý không chỉ có tính cách chữa trị sự đau khổ và vô minh của chúng ta về sự chết và sự hấp hối mà còn giúp chúng ta chứng đạt mục tiêu an lạc vô thượng, không những cho đời này mà còn cho sự chết và cõi bên kia nữa.
08/04/2013(Xem: 10896)
Nói đến Ấn Độ là nói đến một nền văn hóa với nhiều truyền thống tôn giáo. Nơi đây có nhiều triết thuyết ra đời với nhiều tư tưởng khác nhau. Nhưng tất cả các học thuyết sau này đều dựa vào tư tưởng triết học Upanishad; vì từ rất sớm, . . .
08/04/2013(Xem: 26815)
Quan điểm của triết học Ấn Độ, các thần linh là không thể tách rời trong nhận thức mọi người, cho dù đã mấy ngàn năm qua cho đến hiện này và mãi đến ngàn sau thì Phạm Thiên thư cũng không thay đổi. Và con người phải chấp nhận Đấng Phạm Thiên (Brahma), . . .
08/04/2013(Xem: 6346)
Việc tế đàn ngoài mục đích cầu mưa rơi xuống tưới mát ruộng đồng đem thắng lợi cho số đông, an cư lạc nghiệp, thành công, con đàn cháu đống, gia súc tăng trưởng, trường thọ, cường tráng…
08/04/2013(Xem: 7272)
Đi tìm bản chất của bản ngã cùng các quy luật của nó chính là nội dung mà bao thế hệ Veda đã và đang nỗ lực xây dựng nhằm hoàn thiện thiên chức thiêng liêng mà Đấng tối cao Brahman đã giáo phó.
08/04/2013(Xem: 6003)
Thuyết vô thần[1], hay chủ nghĩa vô thần, là một quan điểm khẳng định rằng thần thánh không tồn tại, hoặc phủ nhận “đức tin”[2] vào thần thánh. Từ “vô thần” còn được định nghĩa một cách rộng hơn là sự không có đức tin vào thần thánh, đồng nghĩa với phi thần luận (nontheism).
08/04/2013(Xem: 5733)
Jainism- Kỳ-na giáo là một tôn giáo có hệ tư tưởng ngoài hệ thống thánh điển Veda, mặc dù trong số những vị mở đường ấy có Rsabha, Agitanàtha và Aritanemi; cả ba đều ở thời cổ đại và được đề cập tới trong kinh Yagur-Veda.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567