Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

06-Cúng dường Tam Bảo

28/01/201109:41(Xem: 9134)
06-Cúng dường Tam Bảo

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT
HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Cúngdường Tam Bảo

I.-MỞÐỀ

Thấyngườilàm việc lành việc phải, mình tán thán bằng lời,hoặc góp một phần công, giúp một phần của để thành tựucông việc lành ấy. Quả là người này đã có lòng lành đángquí đáng mến. Huống nữa, Tam Bảo là cây cầu đưa chúngsanh từ bến mê qua bờ giác, Tam Bảo là con thuyền cứu vớtchúng sanh đang chìm trong bể khổ đưa đến bờ Niết-bàn,Tam Bảo là ngọn đèn sáng soi đường cho chúng sanh khỏi lạctrong rừng tối vô minh. Người phát tâm tán trợ bồi bổtô đắp cho Tam Bảo thường còn ở thế gian thì công đứcbiết bao kể xiết. Vì Tam Bảo thường còn ở thế gian, chúngta phát tâm cúng dường, quả là việc làm tự lợi lợi thađầy đủ.

II.-ÐỊNH NGHĨA

Cúngdường là nuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tấtcả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thườngcòn đều gọi là cúng dường. Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng.Phật đã quá khứ, chỉ còn lại hình tượng. Pháp bắt nguồntừ chữ Phạn đến chữ Hán còn nằm sẵn trong kho tàng nhàchùa. Tăng là những tu sĩ tu theo Phật học chánh pháp. Chínhnhững vị này có bổn phận gìn giữ hình tượng Phật còn,phiên dịch giảng giải chánh pháp. Tam Bảo đều quí kính,song hệ trọng nhất là Tăng. Nếu không có Tăng ai gìn giữchùa chiền, ai giảng dạy chánh pháp? Thế nên, cúng dườngTam Bảo là nói chung, mà hệ trọng là Tăng. Tăng chúng cònlà Tam Bảo còn, Tăng chúng mất thì Tam Bảo cũng vắng bóng.Vì thế mọi sự cúng dường đều đặt nặng vào Tăng, vớimục đích Tam Bảo tồn tại ở nhân gian.

III.-CÚNG DƯỜNG SAI LẠC

Thếmà có những người cúng dường một cách lệch lạc mấthết ý nghĩa cúng dường. Như có một Phật tử đi chùa đếnthầy Trụ trì xin cúng năm đồng, liền đó được nghe hỏi"cầu cái gì", Phật tử ngơ ngác. Thầy Trụ trì hỏi thêm"cầu an hay cầu siêu", Phật tử bóp đầu suy nghĩ đáp "cầusiêu", rồi biên một dọc tên vào sổ cầu siêu. Phật tửnày như thế, Phật tử khác cũng thế. Ðã thành thông lệ,cúng chùa là phải cầu siêu hay cầu an. Cầu an cầu siêu chobản thân mình, cho gia đình mình, cho thân thuộc mình, sựcúng ấy quả là vì mình. Vì mình mà đi chùa, vì mình màcúng chùa đích thực là tham lam ích kỷ. Nếu mang một tâmniệm tham lam ích kỷ đến với đạo, chưa xứng đáng mộtPhật tử. Cái hư dở này tại ai? Chính tại người hướngdẫn đã chỉ lối sai lạc.

Ðếnphần ông thầy, do Phật tử cầu siêu cầu an nên có tiền.Ðồng tiền này sau một thời kinh cầu nguyện xong, ông tựcoi như trọn quyền sử dụng không có tánh cách e dè sợ sệtgì cả. Nếu một buổi lễ cầu nguyện được Phật tử cúngnhiều tiền, thế là ông mặc tình phung phí, vì tự cho docông tụng cúng của mình mà được. Thế thì đời tu hànhcốt vì giác ngộ giải thoát, vô tình trở thành người tụngkinh mướn. Người tu cốt xả phú cầu bần, xả thân cầuđạo, biến thành kẻ thụ hưởng. Trái với mục đích xuấtgia, trở thành kẻ hư hèn, chính vì nhận đồng tiền phi pháp.Cầu nguyện là một điều phụ thuộc nhỏ nhít trong Phậtpháp, vì nó không phải là chân lý. Thế mà, người ta thổiphồng nó lên, để rồi cả đời người tu gần như hếttám mươi phần trăm (80%) Phật sự đều nằm trong những lễcầu nguyện. Truyền bá một điều không phải chân lý, ắthẳn chánh pháp phải chịu suy đồi. Người có trách nhiệmhướng dẫn Phật tử mà một bề cổ xúy cho sự cầu cúng,là đưa họ vào rừng sâu mê tín, gây thêm lòng tham lam íchkỷ cho họ. Quả là kẻ tạo thêm tội lỗi, chớ không phảingười tu hành.

IV.-CÚNG DƯỜNG ÐÚNG PHÁP

NgườiPhật tử chân chánh khi phát tâm cúng dường Tam Bảo, chỉvì mong cho Tam Bảo thường còn ở thế gian để đưa chúngsanh ra khỏi đau khổ mê lầm. Nếu đến chùa, Phật tử cúngnăm mười đồng, Tăng, Ni có hỏi cầu điều gì, Phật tửnên thưa: "Chúng tôi chỉ cầu mong chư Tăng, chư Ni nhận móntịnh tài này để có phương tiện an ổn tu hành, hầu truyềnbá chánh pháp lợi ích chúng sanh." Chỉ vì Tam Bảo vì chúngsanh mà cúng dường, đây là tâm hồn cao thượng quảng đạivị tha. Làm việc bố thí cúng dường cao đẹp như vậy côngđức làm sao giới hạn đuợc. Vì Tam Bảo thường còn ởthế gian để làm lợi ích cho chúng sanh, trong chúng sanh đãcó bản thân mình và thân quyến mình rồi. Quên mình chỉnghĩ đến toàn thể chúng sanh, không phải lòng lợi tha vôbờ bến là gì? Với một lòng vị tha rộng lớn như vậy,dù một số tiền nhỏ, một vật dụng mọn đem cúng dườngcũng là phước đức vô biên. Cho nên nói "Phật dụng tâm".

Tăng,Ni nhận sự cúng dường chân chánh của Phật tử, tự nhiênthấy mình có một trọng trách lớn lao vô cùng. Làm sao tuhành tinh tiến? Làm sao truyền bá chánh pháp lợi ích chúngsanh? Ðể xứng đáng thọ nhận những thứ cúng dường củaPhật tử, chỉ cần nỗ lực tu hành, cố gắng học tập đểhiện tại và vị lai làm lợi ích chúng sanh. Nếu hiện đời,Tăng, Ni, không làm tròn hai việc này, có thể mai kia phảimang lông đội sừng để trả nợ tín thí. Biết như thế,hiểu như thế, Tăng, Ni làm sao dám lơi lỏng lơ là trong việctu hành học tập. Thế là, nhờ sự cúng dường chân chánhcủa Phật tử thúc đẩy Tăng, Ni đã cốù gắng càng cốgắng hơn trong nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của chính mình.Thấy mình thiếu nợ, mới cố gắng lo đền trả bằng cáchnỗ lực tu hành và độ sanh, đây là mục tiêu đức Phậtbắt Tăng, Ni thọ nhận đồø cúng dường của Phật tử.Tăng, Ni là người có bổn phận hướng dẫn tín đồ cúngdường chân chánh đúng pháp thì, cả thầy trò đều cao thượngvà lợi ích lớn. Chúng ta phải gan dạ đập tan những tậptục sai lầm, đừng vì quyền lợi, đừng vì cảm tình, khiếncho chánh pháp đi lần vào chỗ mờ tối suy tàn. Chúng ta làngười lãnh đạo, không phải là kẻ theo đuôi tín đồ đểcầu được nhi?u lợi dưỡng. Ðã dám bỏ nhà đi tu, tứclà dám nhận chịu mọi sự đói rách nghèo nàn, mọi sự giantruân khó khổ, vô lý vì sự ăn mặc mà đi ngược lại sơtâm siêu thoát của mình.

Tuynhiên, nói thế không có nghĩa chúng tôi hoàn toàn phủ nhậnsự cầu nguyện. Chúng ta thấy rõ cầu nguyện chỉ là trợduyên nhỏ xíu, kẻ đối tượng cầu nguyện chỉ được lợiích một hai phần mười, như trong kinh nói. Chúng ta đã thừanhận "nhân quả nghiệp báo" là chân lý thì sự cầu nguyệnlà ngoại lệ, có kết quả cũng tí xíu thôi. Cổ vũ cho điềuphi chân lý, để cho người xao lãng chân lý, là việc làmtrái với chánh pháp. Vì lòng hiếu thảo của Phật tử, buộclòng chúng ta phải cầu nguyện, khi cầu nguyện chúng ta phảicảnh cáo rằng: "Việc làm này là phụ thuộc không đáng kể,kết quả ít lắm." Có thế mới khỏi lệch lạc trên con đườnghoằng hóa lợi ích chúng sanh. Ðã thấy cầu nguyện là việcphụ, chúng ta đừng vì nó làm mất thì giờ tu học của Tăng,Ni, làm mất thì giờ truyền bá chánh pháp.

V.-LỢI ÍCH CÚNG DƯỜNG

Cúngdường Tam Bảo được lợi ích tùy tâm niệm người Phậttử. Nếu vì mình và thân thuộc mình mà cúng dường, phướcđức cũng theo tâm lượng hẹp hòi ấy. Nếu vì Tam Bảo thườngcòn và lợi ích chúng sanh, phước đức sẽ theo tâm lượngrộng rãi thênh thang này. Người Phật tử chân thật thì,bao giờ hay bất cứ việc gì cũng vì lợi ích chúng sanh. Ðừngkhi nào để lệch lạc mục tiêu tối thượng ấy. Chư Phậtra đời cũng vì chúng sanh, truyền bá chánh pháp cũng vì chúngsanh, chúng ta đền ơn chư Phật cũng vì cứu độ chúng sanh.Ðó là tâm niệm rộng lớn cao cả của người tu theo đạoPhật. Vì chúng sanh mà cúng dường Tam Bảo, quả thật ngườiPhật tử sống đúng chánh pháp, hành đúng chánh pháp. Hànhđộng đúng chánh pháp thì công đức lượng đồng với chánhpháp, nghĩa là kiếp kiếp đời đời không mất. Nếu dạyPhật tử làm phước tạo công đức, Tăng, Ni nên dạy đúngtinh thần này.

VI.-KẾT LUẬN

Chúngta tu theo đạo Phật là đi trên con đường sáng, ánh sánggiác ngộ đến đâu thì bóng đêm mê lầm tan đến đấy.Mê tín là một bóng đêm, giác ngộ là ngọn đèn sáng. Bóngđêm và ánh sáng hai cái không thể có đồng thời. Nếu sángthì không tối, hoặc tối thì không sáng. Có giác ngộ làkhông có mê tín, có mê tín thì không có giác ngộ. Nếu chứachấp mê tín là chúng ta đã phản bội với đạo giác ngộ.Trong đạo giác ngộ quả thật không có mê tín. Học đạovà truyền đạo giác ngộ, chúng ta cương quyết dẹp hếtbóng đêm mê tín. Có được như vậy mới gọi là ngườitrung thực với chánh pháp. Bằng ấp ủ nuôi dưỡng chứachấp mê tín, dù kẻ ấy mỗi ngày cúng Phật trăm lần vẫnlà kẻ phá hoại chánh pháp. Thà là chúng ta cam chịu chếtđói, quyết không vì lợi dưỡng mà làm những điều mê tín,dẫn dắt người đi trên đường mê tín. Ðã thừa nhận mìnhlà Phật tử, quyết định không vì lòng tham để bị mộtsố người lợi dụng dẫn đi con đường mê tín.









Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/06/2015(Xem: 31316)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
15/05/2015(Xem: 26311)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
12/05/2015(Xem: 22539)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
01/05/2015(Xem: 30669)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
05/04/2015(Xem: 14027)
Cái Tâm là cái chi chi, có chi chi củng cứ chi chi với Tâm. Theo quan niệm của Phật Giáo, Duy Thức Luận: Tâm thức tạo ra thế giới vạn vật, "tam giới duy tâm, vạn pháp duy thức" hay "nhất thiết duy tâm sở tạo." Tất cả đều nói lên một ý rằng cả thế giới chúng ta đang sống đều do tâm thức tùy theo nhân duyên mà sanh ra muôn sự, muôn vật rồi cũng tùy theo nhân duyên mà diệt đi. Không có việc gì, vật gì, có thực tướng ngay cả chư pháp, tồn tại vĩnh viễn ngoại trừ Tâm Bồ Đề là vô sinh, vô diệt đó chính là Tâm Phật.
16/03/2015(Xem: 8670)
Con đường luận pháp nhứt là trực chỉ nhân tâm hay trở về chân nguyên, tức là phải rõ đệ nhất nghĩa các kinh Phật dạy mà hành đúng pháp, là một việc cần liễu tri và tinh thông thành phần và mục đích pháp học mới có thể mở ra lối đi chân chánh giác ngộ niết bàn. Giải thoát khỏi dòng tâm thức vẩn đục (vô minh) để được minh tâm kiến tánh là hướng đi của mọi tu sĩ. Phổ Nguyệt mong mỏi pháp Phật nhiệm mầu được soi sáng bằng tuệ quán của mỗi người chúng ta cố gắng thâm cứu và thực hiện hoàn mỹ hơn đem lại nhiều lợi ích hơn trong việc tu học.
05/01/2015(Xem: 21533)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
05/01/2015(Xem: 19039)
Các soạn và dịch phẩm của cư sĩ Hạnh Cơ - Tịnh Kiên - Mười Vị Đệ Tử Lớn Của Phật (dịch từ tác phẩm Thập Đại Đệ Tử Truyện, nguyên tác Hoa văn của Tinh Vân pháp sư, nhà xuất bản Phật Quang, Đài-bắc, ấn hành năm 1984) Chùa Khánh Anh (Paris) in lần 1, năm 1994 Tu viện Trúc Lâm (Edmonton) in lần 2, năm 1999 (có thêm phần “Phụ Lục” do dịch giả biên soạn) Ban Phiên Dịch Pháp Tạng Phật Giáo Việt Nam (Nha-trang) in lần 3, năm 2004 Chùa Liên Hoa và Hội Cư Sĩ Phật Giáo Orange County (California) in lần 4, năm 2005 - Lược Giải Những Pháp Số Căn Bản Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 1996 Ban Bảo Trợ Phiên Dịch Pháp Tạng Việt Nam (California) in lần 2 (có bổ túc và sửa chữa), 2008 - Giấc Mộng Đình Mai của Nguyễn Huy Hổ (tiểu luận) Làng Cây Phong (Montreal) in lần 1, năm 2001 - Bộ Giáo Khoa Phật Học (dịch từ bộ Phật Học Giáo Bản – sơ cấp, trung cấp, cao cấp – nguyên tác Hoa văn của Phương Luân cư sĩ, Linh Sơn Xuất Bản Xã, Đài-bắc, ấn hành năm 1996) * Giáo Khoa Phật Học
19/11/2014(Xem: 13570)
Văn học là một trong những phương thức biểu đạt tình cảm và trí thức của loài người. Một tác phẩm văn học hay, không chỉ tạo ra tiếng vang rộng lớn tại thời điểm và địa phương nào đó, thậm chí nó có khả năng siêu vượt biên giới thời-không, dẫn dắt nhân tâm bước vào cảnh giới chân- thiện- mỹ. Trong Phật giáo có rất nhiều tác phẩm chính là đại diện cho loại hình này; đặc biệt chính bản thân Đức Phật cũng là nhà văn học tài trí mẫn tiệp, trí tuệ siêu quần.
15/11/2014(Xem: 20751)
Nên lưu ý đến một cách phân biệt tinh tế về thứ tự xuất hiện của hai kiến giải sai lầm trên. Đầu tiên là kiến giải chấp vào tự ngã của các nhóm thân tâm, và từ cơ sở này lại xuất phát kiến giải chấp vào tự ngã của cá nhân. Trong trường hợp nhận thức được Tính không thì người ta sẽ nhận ra Tính không của nhân ngã trước; bởi vì nó dễ được nhận ra hơn. Sau đó thì Tính không của pháp ngã được xác định.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]