Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

9. Môi Trường mới của Thân Trung Ấm

24/10/201406:00(Xem: 5368)
9. Môi Trường mới của Thân Trung Ấm

Vén Bức Màn Bên Kia Cõi Chết
Tác giả: Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ

Xuất bản tại Hoa Kỳ 2005

 

---o0o---

MÔI TRƯỜNG MỚI CỦA NHỮNG THÂN TRUNG ẤM ĐẾN THỌ THÂN

 

Thức A-Lại-Da có mặt trong tất cả các chủng loại chúng sinh hữu hình và vô hình trong tam giới, lục đạo.

Về các chủng loại chúng sinh hữu hình như các chủng tộc loài người, các loài súc sinh lớn, nhỏ và li ti, có cánh, không cánh, hai chân, nhiều chân, không chân, đều ở chung không gian với loài người trên mặt đất, dưới biển, sông ngòi, ao hồ, rạch mương, thân cây, ghềnh đá, v.v... Tất cả đều có thức A-Lai-Da ẩn tàng trong bản thân làm chủ chỉ đạo cho thân nói ra lời (người), tru (chó), gầm gừ (cọp, sư tử), hót (chim), ngao ngao (mèo), v.v... và hành động mưu sinh... Không có thức A-Lai-Da trong bản thân, thì bản thân chỉ là một cục thịt. Cho nên bản thân bằng thịt có máu đỏ, máu trắng chỉ là cái vỏ, cái áo, không phải người thật, súc sinh thật; mà người thật, súc sinh thật, đó là thức A-Lại-Da, còn gọi là tâm ý. Đức Phật đã thấy được thức A-Lại-Da (Như lai tạng bị vô minh bao phủ) có trong bốn loài chúng sinh: thai sinh, noãn sinh, thấp sinh và hóa sinh. Cho nên Đức Phật đã dạy con người (con vật tối linh) đừng nên sanh tâm sát hại các loài súc sinh, vì chúng biết đau khổ, đói khát, nhớ thương, buồn vui, tình nghĩa... Tức là tất cả chúng sinh đều có Phật tánh (Như lai tạng), nhưng vì bị vô minh bao phủ nên có sinh tử luân hồi, thì thức A-Lại-Da là cái tên biểu thị cho Như lai tạng bị vô minh bao phủ như đã được thuyết minh ở phần trước về đề tài “Thức A-Lại-Da có phải là linh hồn?”

Như đã nói, vai trò của thức A-Lai-Da là mang theo toàn bộ tổng thể nghiệp thiện, ác, sau khi ra khỏi xác chết, rồi tự kiến tạo thân Trung ấm là thân đợi chờ đến môi trường mới để thọ thân chúng sinh theo lực của định nghiệp là cái nhân quyết định. Vì do lực của định nghiệp, mà sự ra đi đến môi trường mới của các thân Trung ấm không có thời gian hạn định quả quyết phải là đúng 49 ngày, rất là vô chừng. Cho nên có những thân Trung ấm, qua một tuần, hai tuần mới ra đi v.v... Có những thân Trung ấm không đi đâu hết, chấp nhận thực tại làm môi trường sống. Thì, đây cũng chính là do định nghiệp của họ, bởi vì trước khi xả bỏ xác thân trần thế, tâm tư họ có khởi lên hoài bão, ước muốn nhắm đến một mục tiêu nào đó, chứ không phải định nghiệp trọng tội. Sau đó thân Trung ấm bị giải thể, chuyển qua cái thân ma vô hình với thời gian vô định để thực hiện mục tiêu ước muốn. Chẳng hạn câu chuyện Viên Án Triệu Thố được chứng minh rõ thực, trong đó Triệu Thố đã làm kiếp ma với thời gian hằng trăm năm để thực hiện mục tiêu báo thù Viên Án. Và những câu chuyện: Chị của giáo sư Định làm kiếp ma 30 năm, các vong linh hiện về khiếu nại với quan chức chính quyền vì bị chết oan, xử oan, v.v... như đã nói ở trước.

Bất cứ thân Trung ấm nào cũng đều chứa đựng vô minh, vọng thức nhiều hoặc ít, là lá chắn ngăn che (ấm – uẩn) Phật tánh, cho nên phải đi đến môi trường mới để thọ thân. Trước khi ra đi, thân Trung ấm của họ bị chết ngất từ một lần cho đến bảy lần, sau đó thân tướng bị giải thể, chỉ còn lại chủng tử nghiệp (ấm, uẩn) trong thức A-Lại-Da, tức là thức A-Lại-Da trở về lại nguyên hình một khối nghiệp quả di động do có biết (thức).

Môi trường mới, mà thức A-Lại-Da đến tiếp nhận để thọ thân hữu hình và vô hình là tại sáu cõi trong tam giới. Hữu hình là thân được kiến tạo bởi bốn thứ lớn: đất, nước, gió, lửa và những vật chất khác ngay tại trái đất này làm cho mắt con người thấy rõ.

Chúng sinh hữu hình tại trái đất này, đó là loài người và súc sinh muôn loài lớn, nhỏ, cực nhỏ, li ti.

Môi trường mà thức A-Lại-Da đến thọ thân chúng sinh hữu hình là tử cung của mẹ (con cái), đó là thai sinh. Trong lòng trứng, đó là noãn sinh. Nơi ẩm thấp, đó là thấp sinh. Nơi ẩm ướt, đó là hóa sinh. Bốn nơi trên, ở đó có tế bào sống âm dương là thức A-Lai-Da liền hòa nhập vào mà thọ sinh mệnh. Tức là một sinh mệnh chúng sinh hữu hình được thành thân phải hội đủ ba thứ: tế bào sống âm dương (tinh trùng + noãn châu) và thức A-Lại-Da. Nếu một trong ba yếu tố đó bị thiếu, thì không thể thành sinh mệnh. Cho dù môi trường không phải là tử cung bụng mẹ, mà là cái ống nghiệm, trong đó có tinh trùng và noãn châu, thức A-Lai-Da vẫn nhập vào một cách thông suốt.

Nói rõ hơn, bất cứ nơi nào, như trong đống rơm, rác rến, mặt đất ẩm ướt, thân cây, bờ nước ẩm, trong nồi niêu có chất ôi thối, v.v... Một khi ở những nơi đó có tế bào sống âm dương hiện hữu, tức thì A-Lại-Da mang quả báo nghiệp súc sinh hòa nhập vào mà thọ thân. Âm dương được nói tại những nơi trên là khí nóng ban ngày, khí lạnh ban đêm, chứ không phải cha mẹ, đực cái, trống mái như loài thai sinh, noãn sinh.

Qua những câu chuyện: con rận trong bâu áo cà sa, con sâu trong đốt mía, các hài nhi con người được ra đời khỏe mạnh và lớn lên từ ống nghiệm, cũng như những con đom đóm được sinh ra từ đống rơm, lá ủ mục nát. Những côn trùng nhỏ có cánh được sinh ra từ những trái cây ôi thối, trong nồi có thức ăn lên men, những con mọt trong thùng gạo, v.v... là những dữ kiện chứng minh về môi trường mới của những thức A-Lai-Da đến thọ thân chúng sinh hữu hình.

 

Như đã nói, thức A-Lại-Da cũng chính là một kho tàng chủng tử, hoạt động của nó rất thâm hậu, mắt phàm không thể thấy được trọng lượng, dung chứa, nơi chốn nhất định nào của nó, nhưng nó có khả năng đến bất cứ nơi nào gần nhất, xa nhất, hằng trăm năm ánh sáng ngoài không gian vô tận và nơi nào có lớp vỏ bao bọc kín đáo nhất, nhỏ nhất như vi trần, nó vẫn vào thọ thân chúng sinh. Cho nên nói thức A-Lai-Da tức chủng tử (hạt giống) nhỏ, thì nó nhỏ hơn hạt bụi. Nói lớn, nó lớn bao trùm khắp tam thiên đại thiên thế giới. Dù nó nhỏ hơn hạt bụi như vậy, nhưng nó có khả năng sẽ trở thành một con voi lớn, một đế vương trị vì thiên hạ ở cõi trần, một thiên vương ở cõi trời, một thánh nhân, một vị Phật... Và dù rộng lớn như tam thiên đại thiên thế giới như vậy, nhưng nó sẽ trở thành thân chúng sinh nhỏ như con vi trùng, con phù du, con mọt, con kiến... bởi bảy quan năng rung động, hằng chuyển bất diệt của nó.

Do từ sự rung động của bảy quan năng cảm nhận, mà có những thức A-Lại-Da tự tạo cho mình một môi trường mới, đó là thực tại. Thực tại bên kia cõi chết là một thứ không gian có vô số chiều, chứ không phải 3 chiều như không gian của cõi trần. Sau khi thức A-Lại-Da tự thác sinh thân vô hình là Thánh, Thần, Tiên, Diêm Vương, quỷ vương, quỷ đói, quỷ dữ, yêu tinh, ma trơi, ma xó, âm hồn, cô hồn... liền sống trong một chiều không gian trong vô số chiều không gian.

Trong vô số chiều không gian của các loài chúng sinh vô hình đó, có những chiều không gian hực lửa nóng bức, lạnh tái tê, âm u lờ mờ, đen tối, sâu thẳm, đỏ rực, bén nhọn, v.v... Đó là những loại địa ngục do từ nghiệp quả ác trong thức A-Lại-Da biến hiện ra để tự sát phạt. Và có những chiều không gian thanh tao, trang nhã, đó là cảnh giới của các loài A-Tu-La (Thánh, Thần, Tiên) do từ thức A-Lại-Da rung động mà có.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/07/2011(Xem: 3820)
Cổ thi nói: "Ta thấy người khác chết. Trong lòng nóng xót xa! Chẳng phải xót kẻ mất. Vì sẽ đến phiên ta!" Giữa đời, việc buồn thảm lớn lao không chi hơn tử biệt. Nhưng sự chết, người đời lại chẳng ai tránh khỏi. Cho nên những kẻ có lòng muốn lợi mình lợi người, không thể không sớm dự bị lo toan. Thật ra, chữ chết nguyên là giả danh, vì đó chẳng qua là sự kết liễu của một thời quả báo, do nghiệp cảm liên chuyền giữa mỗi đời, khi xả thân này, lại thọ thân khác mà thôi. Kẻ không biết Phật pháp vẫn đành để cho tùy nghiệp xoay vần. Người đã nghe pháp môn Tịnh Độ của Như Lai, phải tín nguyện niệm Phật dự bị tư lương, để khi lâm chung được vãng sanh an thuận.
13/07/2011(Xem: 4801)
Người tu Tịnh Độ, khi bịnh chưa nặng cũng nên uống thuốc, nhưng vẫn tinh tấn niệm Phật, chớ tưởng nghĩ rằng: uống thuốc rồi sẽ lành bịnh. Lúc bịnh đã nặng, có thể không cần dùng thuốc. Hoằng Nhứt đại sư khi đau nặng, có kẻ thưa để xin rước thầy hốt thuốc. Ngài liền từ tạ và nói kệ rằng...
13/07/2011(Xem: 3399)
Tục ngữ Việt Nam chúng ta có câu “ sanh ký tử quy, nghĩa là ; Sống gởi trần gian, chết lại về”. Vậy khi chết chúng ta đi về đâu? Đây là câu hỏi rất khó trả lời, chỉ có bậc Đại giác ngộ mới thấy rõ con đường đi này và chỉ dạy cho chúng ta biết mà thôi. Đó là sáu con đường mà chúng sanh qua lại mãi: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh, cõi Trời, Người, A-tu-la, còn gọi là sáu nẻo luân hồi. Khi con người còn sống, gây tạo nhân gì thì kết quả sẽ theo họ như thế ấy. Kết quả đó là động cơ thúc đẩy con người sau khi chết, đi vào các cảnh giới tương ưng trong sáu đường .
13/07/2011(Xem: 4070)
“Trợ giúp thành tựu cho một chúng sanh được vãng sanh, tức là thành tựu cho một chúng sanh tương lai thành Phật. Công đức này thật không thể nghĩ bàn”. Hộ niệm là trợ giúp cho một người được vãng sanh. Người hộ niệm cần phải biết rõ phương pháp cũng như đạo lý về vãng sanh thì mới đem lại lợi ích cho người được hộ niệm. Người không tu hành, không hiểu Phật pháp, không được hướng dẫn vãng sanh, không có hộ niệm, giờ lâm chung đa phần thần thức của họ thường bị dìm trong ác mộng, bị rơi vào những cạm bẫy dữ ác, rơi vào những cảnh hung hiểm. Bị lôi vào đó rồi thì rất khó thoát thân, thần thức sẽ theo nghiệp đi thọ báo.
09/07/2011(Xem: 6534)
Lúc này tôi nghĩ có ba vấn đề chúng ta phải thấu triệt nếu chúng ta muốn hiểu rõ toàn chuyển động của sống. Chúng là thời gian, đau khổ và chết.
01/07/2011(Xem: 8743)
Số đông quần chúng cần một thời gian dài mới quen thuộc với ý niệm về tái sinh. Tôi cũng đã trải qua nhiều giai đoạn trong tiến trình đưa đến sự xác tín vào tái sinh.
24/06/2011(Xem: 4519)
Đó là câu hỏi của một hãng Thông tấn ở phương Tây đưa ra trong một cuộc thăm dò ý kiến với đông đảo người dân ở nước Anh. Câu hỏi với tình huống giả định là một thiên thạch sắp đâm vào trái đất và bạn chỉ còn 60 phút nữa sống trên cõi đời, bạn sẽ làm gì trong 60 phút ngắn ngủi ấy…
19/06/2011(Xem: 8316)
Luật nhân quả không phải là luật riêng có tính cách tôn giáo. Trong vũ trụ, thiên nhiên, mọi sự vật đều chịu luật nhân quả, đó là luật chung của tự nhiên.
11/06/2011(Xem: 4313)
Chúng ta chết là chết như thế nào? Và sau khi chết, chúng ta đi về đâu? Đấy là những câu hỏi, những thắc mắc, những hoài nghi đeo bám tâm thức nhân loại từ xưa đến nay và dường như chúng vẫn đang còn treo lơ lửng ở đấy với những vấn nạn siêu hình nhức nhối và đầy bí ẩn. Đức Phật là bậc thầy của chư thiên và loài người (Thiên Nhân Sư), là bậc thông suốt thế gian, thông suốt tam giới (Thế Gian Giải), là bậc đã thấy biết toàn diện và chơn chánh (Chánh Biến Tri)... đã giảng giải cho những người học Phật và tu Phật như thế nào về “hiện tượng chết và tái sanh”? Bây giờ muốn đi vào nội dung ấy, chúng ta sẽ phải lần lượt nghiên cứu qua những tương quan liên hệ sau đây:
06/05/2011(Xem: 9201)
Khi truyền bá rộng rãi sang châu Á, Phật giáo thành công khi vượt qua một số vấn đề nổi bật từ những giới hạn về ngôn ngữ trong một số trường hợp phải phiên chuyển thành một ngôn ngữ rất khác với ngôn ngữ nói của Ấn Độ. Giáo lý đạo Phật được truyền đạt bằng lời nói qua vô số ngôn ngữ và tiếng nói địa phương. Còn Kinh tạng, khi đã được viết ra, lại được phiên dịch thành hàng tá ngôn ngữ ngay cả trước thời kỳ hiện đại. Do vì nguồn gốc lịch sử không cho phép các học giả dùng ngôn ngữ nói trong việc giảng dạy, bài viết này sẽ tập trung vào những ý tưởng được viết ra, nhằm khảo sát việc truyền dạy qua lời nói chỉ trong thời kỳ Phật giáo Ấn Độ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567