Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Ma giấu người

23/10/201416:47(Xem: 12841)
6. Ma giấu người

 

Vén Bức Màn Bên Kia Cõi Chết
Tác giả: Đức Hạnh Lê Bảo Kỳ

Xuất bản tại Hoa Kỳ 2005

 

---o0o---



MA GIẤU NGƯỜI.

Chuyện ma giấu người cũng lắm phổ biến trên thế giới, nhất hạng là ở các nước Á Châu, trong đó có Việt Nam, một nước đứng hàng đầu về chuyện ma giấu người, được các tiền nhân xưa và nay, từ nam, trung, bắc nói đến.

Ma giấu người nói riêng ở ba miền Việt Nam có cùng một hiện tượng, nhưng khác vị trí không gian.

Cùng một hiện tượng, đó là con người từ nương dâu, ruộng đồng, rừng núi trên đường về nhà vào lúc chạng vạng hay giữa đêm. Bỗng nhiên thấy có bóng người ở đằng trước không xa lắm. Khi đến gần sát bên, người đó quay lui nói lời xã giao, người trên đường về cũng đáp lại. Rồi sau đó lòng cảm thấy người mà mình gặp giữa đường, trông có vẻ quen quen từ bao giờ.

Giữa lời đối đáp xã giao, người kia (ma) nhã ý mời người này (người thật) vô nhà, thăm chơi. Người được mời đồng ý. Chẳng bao lâu, chỉ mười bước thấy phía trong có ngôi nhà hiện ra. Người mời đi vào nhà, người được mời đi theo vô.

Vào nhà, người được mời thấy trong nhà cũng có phòng ngủ, phòng khách, bàn thờ, bếp núc, đèn sáng đàng hoàng, không khác gì ngôi nhà thật. Người được mời ngồi vào phòng khách, được chủ nhà mời ăn bánh ngọt, uống nước trà nóng rõ ràng, cùng với lời trò chuyện xưa, chuyện nay v.v...

Trong khi đó, thân nhân của người bị ma giấu (vợ, con, cha mẹ, anh em... ) cứ ngồi trông đợi đến khuya, đến sáng và có khi qua ngày hôm sau, mà không thấy chồng, con, anh, em mình về. Tức khắc cùng nhau đi tìm khắp nơi, không sót chỗ nào, từ gần đến xa ngoại ô làng, xã. Dĩ nhiên, phải tìm cho ra, dù đến khuya, đến sáng hay hôm sau vẫn phải tìm cho bằng được.

Khi tìm thấy được, thì hỡi ôi! Có người bị ngồi ở trước ngôi mộ ở nghĩa trang hay bên đồi lẻ loi. Có người bị ngồi trong bụi cây. Có người ngồi trên cành cây đại thọ. Ba nơi đó là vị trí khác nhau. Còn cùng hiện tượng, là người bị ma giấu, ai cũng được ma thăm hỏi, dẫn vào nhà (sang trọng, bình dân, lụp sụp) mời ngồi, mời nước, mời ăn bánh, v.v...

Người bị ma giấu ngồi ở mộ, bụi cây, cành cây như vậy, khi vừa được thân nhân tìm thấy, tức khắc họ không còn thấy gì nữa, chỉ thấy một màu đen tối phủ xuống. Tâm ý của họ lúc bấy giờ như thấy mình đang ngủ ở nhà. Cho nên sau khi được thân nhân phủi bụi đất nơi quần áo, xoa bóp tay chân, moi đất hay lá cây trong miệng ra, thì họ tỉnh giấc, rồi mở mắt. Lúc đó họ nhìn thân nhân trong trạng thái ngơ ngác, lạ lùng và im lặng, nhưng có nghe nên chỉ gật đầu sau lời thân nhân hỏi.

Qua một vài phút cấp cứu, làm tỉnh lại, họ được thân nhân đỡ đứng lên đưa ra khỏi ngôi mộ hay bụi rậm, cành cây. Đa số ngồi ở ngôi mộ, bụi rậm, chứ cành cây thì rất ít nghe nói đến.

Trên đường về lại nhà, có người trả lời liền câu hỏi của thân nhân, có người lắc đầu vì còn bị ủ ê trong tâm hồn. Qua vài giờ nằm nghỉ ngơi, họ mới hoàn toàn tỉnh hẳn. Sau khi họ tỉnh hẳn, họ tường thuật lại những hiện tượng như đã nói vừa rồi.

 

LỜI BÌNH GIẢNG

Cụm từ “ma giấu người” là lời ông bà xưa nói ra do dựa vào những hiện tượng con người đi đêm bị ngồi nơi ngôi mộ, bụi rậm, cành cây trong trạng thái mê, nhưng ý thức bên trong làm việc với các vong linh (ma) giống như nằm mộng thấy lúc ngủ say... như đã trình bày trong bài.

Thật sự không phải ma giấu, phải nói là ma mời, ma tiếp đãi người sống thì đúng hơn. Bởi vì ma, không ai đâu xa lạ. Họ là con người có tấm thân vô hình do thức A-Lại-Da biến thể sau khi nó ra khỏi xác chết. Thân vô hình ấy được gọi là thân trung ấm hay gọi là vong linh. Vì chữ “Linh” là biết (thức) nhạy cảm do bảy quan năng trong thân trung ấm trỗi dậy và làm việc y như lúc còn sống trên đời.

Con người lúc còn sống trên đời, bản tính của họ là hiền hòa, biết nghĩa, trọng ân, hiếu khách hay hung ác, kỳ thị, ganh ghét, thù hận... Sau khi chết, những bản tính ấy không bao giờ mất, do thức A-Lại-Da mang theo. Do vậy, với con người lúc còn sống, họ có đức tính hiền hòa, hiếu khách, nên thường mời bạn hữu thân thích đến nhà để hàn huyên tâm sự qua chén trà, miếng bánh v.v... Cũng như vậy, qua bên kia cõi chết, vong linh họ vẫn hiền hòa, hiếu khách, cho nên họ thường đón rước những người đi đêm có cùng tần số với họ vào nhà họ, đó là ngôi mộ, bụi rậm, cành cây để tiếp đãi và hàn huyên.

Tại sao những vong linh vốn có đức tính hiền hòa, hiếu khách như vậy, mà không siêu thoát, cứ ở nơi ngôi mộ, bụi rậm, cành cây, để rồi mời người sống vào hàn huyên? Bởi vì đức tính hiền hòa, hiếu khách, không phải là năng lực làm cho vong linh siêu thoát. Năng lực đưa vong linh siêu thoát, phải là do cái tâm trống rỗng, không còn vọng động, hết vô minh, phiền não... gọi là tâm thanh tịnh, có trí tuệ giác ngộ qua quá trình tu tập một cách tích cực. Thì, những vong linh vốn có đức tính hiền hòa, hiếu khách, lại bị cộng thêm cái tâm còn luyến tiếc của cải, tiền tài, còn tham ái, nhớ thương con cháu, quyến thuộc... , là cái lực không lên, chẳng xuống, cứ lững lờ trong bầu ánh sáng mờ ảo, vọng thức của họ. Cho nên những cảnh như: ngôi nhà có đủ phòng ốc, bàn ghế, đèn đuốc, trà nước, bánh mức, v.v... mà người sống đi đêm sau khi được họ mời vào đã được thấy, được ăn bánh, uống trà... Tất cả đều do vọng tâm của họ biến ra.

Với con người lúc còn sống có bản tính độc ác, kỳ thị, ganh ghét, hận thù về đối tượng nào, qua bên kia cõi chết, vong linh họ vẫn mang nặng tâm hận thù, oán ghét về đối tượng đó. Dĩ nhiên họ không siêu thoát lên, cũng không đọa xuống, cứ sống mãi trong bầu ánh sáng u tối hận thù của họ cho mục đích trả thù.

Cho nên hiện tượng “Ma Giấu Bò” nói riêng ở Bình Thuận thường xảy ra rất phổ biến, được ông bà xưa kể lại và cho biết nguyên do là: Người Chàm ở Việt Nam là nguồn gốc Ấn Độ thuộc liên bang Cham ở phía đông nam nước Ấn. Họ di dân lần qua các nước Thái Lan, Campuchia, Lào và Việt Nam trong thời đại du mục. Tại Việt Nam, họ bị mất gốc do người Việt đồng hóa gần hết (đồng hóa được thay cho tiêu diệt). Cho nên số ít đang còn trên đất Việt từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận và những người đã qua đời, cả hai sống và chết đều oán hận dân Việt. Do vậy, người sống và qua đời đều tìm cách trả thù người Việt. Trong những cách trả thù đó là giấu bò của người Việt do những vong linh Chàm bên kia cõi chết thực hiện và thư bùa, ếm ngải, cũng như nơi gốc ruộng của họ có bùa ngải để trừng phạt những con bò của người Việt đến ăn lúa của họ, bằng cách làm cho con bò ăn lúa cứ bị đứng đó mãi không đi được, do người Chàm còn sống thực hiện.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/11/2014(Xem: 8491)
Tôi có quen một cặp vợ chồng trẻ thường lui tới ngôi chùa Bảo Vương để học Pháp tụng kinh mỗi sáng chủ nhật. Minh Sinh, người chồng, gọi tôi là 'anh' trong khi Phương Thảo, người vợ, gọi tôi bằng 'chú'. Khoảng nửa năm trước mẹ của Thảo, 82 tuổi, ngả bệnh đang nằm trong bệnh viện Clayton với tình trạng đã hôn mê kiệt quệ, thoi thóp chỉ chờ ngày 'ra đi'. Thảo-Sinh đã mời Sư Ông (mà tôi gọi là sư phụ) đến tụng kinh cho bà cụ. Hôm đó là một ngày làm việc nên chỉ có sư phụ cùng với anh Bảo Minh Đạo (đã hưu trí) có thể đi được. Đã hẹn trước nên anh Minh Đạo - trên đường hướng về Clayton đã ghé ngang city đón tôi trước nơi làm việc trên đường Flinders để đi luôn cho đủ bộ, có 'duy na' có 'duyệt chúng', có 'tả phù hữu bật' để phò trợ cho sư phụ trong việc hành lễ.
11/11/2014(Xem: 5399)
Chú ngựa Bronwen tiến lại gần, quỳ xuống và hôn lên má bà bà Sheila Marsh, 77 tuổi, đang nằm trên giường bệnh, khi cả hai vĩnh biệt nhau. Vài tiếng sau cuộc gặp, bà Marsh qua đời.
10/11/2014(Xem: 17607)
Oa oa tiếng khóc trẻ thơ Lần tìm dấu vết sững sờ hoảng kinh Thùng rác chứa bé sơ sinh Cuống nhau chưa cắt đoạn tình đành sao ?
10/11/2014(Xem: 6811)
Hai anh em trai dính liền bụng nhưng họ vẫn có thể lấy vợ và sinh được 21 người con. Cuộc hôn nhân và cuộc sống của họ đã trở thành chủ đề bàn tán cho đến tận bây giờ
06/11/2014(Xem: 6847)
Brittany Maynard đã qua đời ngày hôm qua tại thành phố Portland, bang Oregon miền tây bắc nước Mỹ sau khi uống một liều thuốc tự sát trước sinh nhật thứ 30 của cô 3 tuần lễ.
01/11/2014(Xem: 7222)
Em bé đã tử vong trong quá trình rặn đẻ, người mẹ hỏi xin được ôm con lần cuối và 2 tiếng sau, bỗng có một tiếng ngáp nhẹ. Câu chuyện tưởng như vô cùng khó tin này lại hoàn toàn có thật và đã được 111,7 nghìn lượt like trên toàn thế giới. Chị Kate Ogg, bà mẹ trẻ người Úc tưởng như đã phải nói lời tạm biệt cuối cùng sau khi các bác sỹ cho biết đứa trẻ sinh non của chị đã không thể sống sót – vậy nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra.
23/10/2014(Xem: 11825)
Thức A-Lại-Da không phải là một linh hồn, giác hồn, thần hồn. Từ xưa nay trên thế giới, chưa có một tôn giáo nào phủ nhận sự hiện hữu vĩnh cửu của một linh hồn như Phật giáo, tức là Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn tồn tại trong bản thân con người. Không phải là linh hồn, là cái gì mà các loài vật và con người biết mưu sinh, đói, lạnh, giận hờn, tham lam, luyến ái, đấu tranh giành quyền sống, v.v... ? Đó là Như Lai Tạng hay Phật tánh. Phật tánh (Như Lai Tạng) có trong chúng sinh, đúng như lời Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Sở dĩ chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng (Phật tính) mà sinh ra nhiều thứ ngã là năng lực sinh tử, chứ không phải rằng Phật tính (Như Lai Tạng) có sinh, có tử. Đức Phật đã nhấn mạnh vấn đề này: “Không có tự ngã lấy gì sinh tử”. Tức là do bản ngã mà có sinh tử. Năng lượng sinh ra ngã là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng. Như Lai Tạng được thay bằng thức A-Lại-Da để có thể g
22/10/2014(Xem: 15259)
Kể từ năm 1974, khi tôi còn ở tại Nhật Bản; cho đến nay năm 2014 đang ở tại Đức, đúng ra là 40 năm. Trong 40 năm ấy tôi đã sáng tác và dịch thuật tất cả là 63 tác phẩm. Đó là chưa kể những bản dịch của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc luận tập bộ toàn cũng có trên 3.000 trang đánh máy đã được đăng trên trang nhà Viên Giác, Quảng Đức và Hoa Vô Ưu. Ngoài ra cũng có trên 100 bài viết về đủ thể tài. Từ văn hóa đến giáo dục, từ Tôn giáo đến xã hội, từ tự truyện cho đến tường thuật v.v… kể ra cũng đầy đủ mọi đề tài. Như vậy chia ra cho mỗi năm trong 40 năm ấy, tôi sẽ có con số trung bình là một tác phẩm rưỡi của những tiêu đề trên. Có người hỏi rằng trong 63 tác phẩm ấy, tác phẩm nào Thầy thích nhất? thì đây là một câu hỏi khó trả lời. Vì lẽ nếu không thích, thì tôi đã không tạo ra một đứa con tinh thần cho mình như vậy. Cho nên mỗi quyển sách, mỗi tập truyện nó có một giá trị tinh thần đích thực của nó.
17/10/2014(Xem: 11736)
978-0-9945548-5-7 , To live life fully and die serenely--surely we all share these goals, so inextricably entwined. Yet a spiritual dimension is too often lacking in the attitudes, circumstances, and rites of death in modern society. Kapleau explores the subject of death and dying on a deeply personal level, interweaving the writings of Western religions with insights from his own Zen practice, and offers practical advice for the dying and their families.
06/10/2014(Xem: 7002)
Bhante Kovida trưởng thành trên một hòn đào nhiệt đới ở Jamaica, Trung bộ châu Mỹ, và vốn là dòng dõi người Hoa. Ông đã di cư đến Canada rồi tốt nghiệp đại học về khoa học ở đó. Trong suốt hai năm 1974 và 1975, ông dùng đường bộ để đi từ châu Âu đến Ấn Độ và Népal (ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Tại đây, ông nghiên cứu về lịch sử và Văn hóa Ấn Độ, tập luyện Hatha Yoga và thiền định, tìm hiểu âm nhạc cổ điển Ấn Độ và sau cùng ông đã đến với Phật giáo. Chuyến đi này đã là biến cố có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông vì nó đã thành tựu niềm khao khát mãnh liệt thuở ấu thời về du lịch và phiêu lưu mạo hiểm, và về sự hiểu biết về tâm linh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567