Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cụ ông Ấn Độ 179 tuổi đang sống: “Có lẽ thần chết đã quên tôi...“

13/12/201418:33(Xem: 7565)
Cụ ông Ấn Độ 179 tuổi đang sống: “Có lẽ thần chết đã quên tôi...“

Cụ ông Mahashta Murasi

Cụ ông Mahashta Murasi khỏe mạnh ở tuổi 179.


Dường như thần chết đang ngủ quên hoặc cuốn sổ tử bỗng dưng để lọt cái tên Mahashta Murasi. Cụ ông Ấn Độ này đã bước sang tuổi thứ 179 và là người có tuổi thọ nhất trong lịch sử loài người vẫn còn sống.

Trên trang web http://www.mahashtamurasi.com/ , cụ ông Ấn Độ thổ lộ với báo giới: "Thần chết có lẽ đã quên tôi. Tôi đã sống quá lâu. Con cái, cháu nội, chắt chít của tôi đều đã chết từ rất lâu rồi".

Ông Mahashta Murasi có đầy đủ tài liệu, chứng minh thư, giấy chứng nhận sinh năm 1835. Lần gần đây nhất ông phải đi khám bác sĩ là vào năm 1971. Từ đó đến nay, dù thế giới đã nhiều lần thay đổi thì ông Mahashta Murasi vẫn đang sống.
Ông Mahashta Murasi không có bạn. Đơn giản là vì những người bạn của ông đã qua đời từ rất lâu rồi. Đến cả đứa cháu nội của ông cũng vừa qua đời cách đây một năm. Còn những người sống mà biết đến Mahashta Murasi thì cũng chỉ biết “khi họ sinh ra, ông ấy đã có rồi”. Nên cũng chẳng thể tìm đâu ra được những câu chuyện chính xác về ông lão đã sống tới 179 năm và vẫn tiếp tục sống khỏe như ông Mahashta Murasi.
Theo tài liệu hiếm hoi bao gồm một thẻ căn cước từ năm 1835 thì ông Mahashta Murasi sinh ngày 6/1/1835 tại làng Bangalore ở Ấn Độ. Ông xuất phát là một nông dân. Quanh năm làm bạn với đồng ruộng. Mahashta có một cuộc sống bình thường chẳng có gì nổi bật. Ông cũng chẳng ăn kiêng, ngồi thiền hay thực hiện một phương pháp dưỡng sinh đặc biệt nào cả. Mahashta sống bình thường và cứ thế kéo dài tuổi thọ một cách hết sức bất bình thường.
Theo tài liệu hiếm hoi bao gồm một thẻ căn cước từ năm 1835 thì ông Mahashta Murasi sinh ngày 6/1/1835 tại làng Bangalore ở Ấn Độ. Ông xuất phát là một nông dân. Quanh năm làm bạn với đồng ruộng.
Khi những người bạn của ông trong làng lần lượt qua đời, kinh tế xã hội Ấn Độ biến đổi thì ông cũng rời Bangalore qua thành phố Varanasi làm công nhân. Sau khi vợ qua đời (theo lời thuật lại của Mahashta) thì ông quay lại với đồng ruộng ở Bangalore. Khi ông rời khỏi làng, những người bạn của ông đều đã chết. Khi ông quay về làng thì những người dân ở đó cũng chẳng còn ai biết đến ông. Mahashta sống cô độc khi những đứa con, đứa cháu của ông đều rời Bangalore đi làm ăn xa.
Cuộc sống của ông lão cứ thể bình lặng trôi đi. Ông chẳng ốm đau, bệnh tật. Và y tế ở cái làng ấy cũng chưa đủ phát triển để quan tâm tới tận những người già neo đơn ở cái vùng hẻo lánh, nghèo đói ấy. Với một người làm ruộng như ông thì hễ có gì ăn nấy. Không đói là may chứ đừng nói đến thuốc bổ, dưỡng sinh hay thiền tu. Trong một hồ sơ hiếm hoi từ tận năm 1971 ghi lại thì ông lão không gặp bất cứ chứng bệnh đáng ngại nào. Đó cũng là hồ sơ duy nhất còn sót lại từ bên y tế. Nhưng nó cũng không đủ các yếu tố để chứng thực tuổi tác của Mahashta.
Nếu quả thực ông lão, đã 179 tuổi thì những người đã có mặt cùng ông để tìm hiểu suốt mấy tháng qua cũng có đủ lý do để ngạc nhiên. Họ đã cất công ăn, ngủ cùng ông lão và nhận thấy, ông lão minh mẫn như một người mới chỉ 60, 65 tuổi ở các nước phương Tây và tương tự với các bậc trung niên 55 tuổi ở các nước châu Á. Toàn bộ các bộ phận trên cơ thể của ông Mahashta không có dấu hiệu bệnh tật.
Ông vẫn có thể trả lời rõ ràng các câu hỏi. Ông kể vanh vách lịch sử Bangalore qua các thời kì, những biến đổi của xã hội Ấn Độ. Những điều mà nếu không phải chính họ trải qua thì phải là một người chịu khó học, tìm hiểu và nghiên cứu lịch sử xã hội thượng thặng mới biết được. Chính vì thế, ngoài việc tiến hành nghiên cứu, phân tích các tế bào trên cơ thể ông Mahashta để xác định chính xác tuổi của ông, thì những kiến thức, hiểu biết về 3 thế kỉ ông trải qua cũng là điều vô cùng kinh ngạc.
Đáng buồn nhất với ông Mahashta là những người thân xung quanh ông không còn ai sống để chia sẻ với ông. Đứa cháu nối dõi cuối cùng và duy nhất cũng đã qua đời mà không có hậu thế. Ông lão chờ đợi thần chết tới gõ cửa. Nhưng trớ trêu thay, trong khi những người xung quanh ông lần lượt ra đi thì ông lão vẫn cứ mỗi năm lại có một lần mừng thọ. Và giờ, Mahashta vẫn được xác định là người có tuổi thọ cao nhất còn đang sống.
Kết luận của một nghiên cứu khoa học mới đây làm các nhà y học rất ngạc nhiên khi khẳng định: sống lâu là do gene quyết định. Các nhà khoa học đã phân tích ADN của một người phụ nữ trường thọ, mất ở tuổi 115. Việc nghiên cứu phát hiện ra rằng trong cơ thể bà cụ có những gene đặc biệt, bảo vệ cho cụ khỏi sự suy giảm trí tuệ và “gia hạn” cho sự tồn tại của cụ. Trong ADN của bà cụ đó còn thể hiện những đột biến di truyền rất ít khi xảy ra.
Họ cũng biết được những điều quan trọng khi tìm tiểu sử y học của cuộc đời cụ. Ví dụ, năm cụ đã 113 tuổi, cụ vẫn thể hiện sự minh mẫn hiếm thấy ở những người cao tuổi. Các trắc nghiệm chỉ số IQ xác định năng lực trí tuệ của cụ ngang bằng một người ở tuổi 60. Những kiểm tra sức khỏe tâm thần cho thấy cụ không hề có bất cứ dấu hiệu lú lẫn nào của những người mắc bệnh alzheimer. Nguyên nhân chết của cụ là bệnh tật: Cụ bị ung thư dạ dày chứ không phải cái chết tự nhiên do suy kiệt của những người già. Do vậy, hiện tượng con người có gene sống lâu vẫn là một bí ẩn lớn cần khám phá.

Mahashta có phải là người đàn ông thọ nhất trong lịch sử?


liching_-yuen_zrvp
Cụ Li Ching-Yun, người Trung Quốc


Nếu cũng chỉ dựa vào những lời kể, những bằng chứng chưa đuợc chứng thực một cách khoa học nhất thì người đàn ông sống lâu nhất lại là một người Trung Quốc. Người đàn ông này có tới 23 bà vợ, 180 con cháu chắt chút chít và bán thảo dược trong 100 năm đầu đời.
Bí quyết sống lâu của ông là “giữ cho trái tim thanh thản, ngồi giống một con rùa và ngủ như một chú cún”. Li Ching-Yun, một cư dân sống tại ngôi làng Kaihsien thuộc tỉnh Tứ Xuyên (Trung Quốc) được cho là người sống lâu nhất thế giới, ông sinh năm 1736 và qua đời vào ngày 6/5/1933, hưởng thọ 197 tuổi.

Tuy nhiên cũng có những bản ghi chép nói rằng ông sống tới tận năm 256 tuổi. Vào năm 1930, giáo sư Wu Chung - Chien, Trưởng khoa Giáo dục của Đại học Minkuo đã tìm thấy những bản thảo chỉ ra rằng ông Li sinh năm 1677 và triều đình phong kiến Trung Quốc đã từng tổ chức thượng thọ lần thứ 150 và 200 cho ông. Một phóng viên của New York Times viết vào năm 1928 rằng nhiều bô lão ở ngôi làng Kaihsien khẳng định cha họ biết ông Li từ lúc họ còn bé tí và khi đó ông Li đã già.

Từ lúc họ còn bé tí và khi đó ông Li đã già. Theo những câu chuyện lưu truyền ở tỉnh Tứ Xuyên, ông Li biết viết và đọc từ rất sớm. Năm lên 10 tuổi ông đã tìm đến Sơn Tự, Tây Tạng, Cam Túc, Mãn Châu và Thái Lan để thu mua thảo dược. Trong 100 năm đầu tiên, ông tiếp tục theo đuổi nghiệp này, sau đó chuyển sang bán thảo dược do người khác thu mua. Wu Peifu, người đứng đầu quân đội Trùng Khánh đã từng mời ông Li về tư gia của mình với mong muốn được truyền bí quyết sống.

Căn cứ vào một tài liệu cố đề cập đến đời sống hôn nhân của người đàn ông nhiều tuổi nhất thế giới này. Nguời ta biết được ông Li đã tiễn 23 bà vợ về suối vàng và sống với đứa con thứ 24- khi đó đã ngoài 60 tuổi. Trong một tài liệu khác có ghi năm 1928 nói rằng ông chỉ kết hôn có 14 lần và có 180 người con cháu chắt chút chít, gồm 11 thế hệ. Theo đó, dù tuổi cao nhưng thị lực của ông Li vẫn rất tốt, hơn nữa móng ở bàn tay phải của ông dài đến nỗì những người đang giữ kỷ lục thế giới hiện nay cũng phải chào thua. Có một diều kỳ lạ mà những người từng thấy ông Li nói rằng sắc mặt của ông không có gì khác so với những người kém ông tới 2 thế kỷ.


Hải Miên
(Tuổi trẻ & Đời sống)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/11/2014(Xem: 5378)
Chú ngựa Bronwen tiến lại gần, quỳ xuống và hôn lên má bà bà Sheila Marsh, 77 tuổi, đang nằm trên giường bệnh, khi cả hai vĩnh biệt nhau. Vài tiếng sau cuộc gặp, bà Marsh qua đời.
10/11/2014(Xem: 17572)
Oa oa tiếng khóc trẻ thơ Lần tìm dấu vết sững sờ hoảng kinh Thùng rác chứa bé sơ sinh Cuống nhau chưa cắt đoạn tình đành sao ?
10/11/2014(Xem: 6797)
Hai anh em trai dính liền bụng nhưng họ vẫn có thể lấy vợ và sinh được 21 người con. Cuộc hôn nhân và cuộc sống của họ đã trở thành chủ đề bàn tán cho đến tận bây giờ
06/11/2014(Xem: 6824)
Brittany Maynard đã qua đời ngày hôm qua tại thành phố Portland, bang Oregon miền tây bắc nước Mỹ sau khi uống một liều thuốc tự sát trước sinh nhật thứ 30 của cô 3 tuần lễ.
01/11/2014(Xem: 7202)
Em bé đã tử vong trong quá trình rặn đẻ, người mẹ hỏi xin được ôm con lần cuối và 2 tiếng sau, bỗng có một tiếng ngáp nhẹ. Câu chuyện tưởng như vô cùng khó tin này lại hoàn toàn có thật và đã được 111,7 nghìn lượt like trên toàn thế giới. Chị Kate Ogg, bà mẹ trẻ người Úc tưởng như đã phải nói lời tạm biệt cuối cùng sau khi các bác sỹ cho biết đứa trẻ sinh non của chị đã không thể sống sót – vậy nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra.
23/10/2014(Xem: 11797)
Thức A-Lại-Da không phải là một linh hồn, giác hồn, thần hồn. Từ xưa nay trên thế giới, chưa có một tôn giáo nào phủ nhận sự hiện hữu vĩnh cửu của một linh hồn như Phật giáo, tức là Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn tồn tại trong bản thân con người. Không phải là linh hồn, là cái gì mà các loài vật và con người biết mưu sinh, đói, lạnh, giận hờn, tham lam, luyến ái, đấu tranh giành quyền sống, v.v... ? Đó là Như Lai Tạng hay Phật tánh. Phật tánh (Như Lai Tạng) có trong chúng sinh, đúng như lời Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Sở dĩ chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng (Phật tính) mà sinh ra nhiều thứ ngã là năng lực sinh tử, chứ không phải rằng Phật tính (Như Lai Tạng) có sinh, có tử. Đức Phật đã nhấn mạnh vấn đề này: “Không có tự ngã lấy gì sinh tử”. Tức là do bản ngã mà có sinh tử. Năng lượng sinh ra ngã là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng. Như Lai Tạng được thay bằng thức A-Lại-Da để có thể g
22/10/2014(Xem: 15189)
Kể từ năm 1974, khi tôi còn ở tại Nhật Bản; cho đến nay năm 2014 đang ở tại Đức, đúng ra là 40 năm. Trong 40 năm ấy tôi đã sáng tác và dịch thuật tất cả là 63 tác phẩm. Đó là chưa kể những bản dịch của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc luận tập bộ toàn cũng có trên 3.000 trang đánh máy đã được đăng trên trang nhà Viên Giác, Quảng Đức và Hoa Vô Ưu. Ngoài ra cũng có trên 100 bài viết về đủ thể tài. Từ văn hóa đến giáo dục, từ Tôn giáo đến xã hội, từ tự truyện cho đến tường thuật v.v… kể ra cũng đầy đủ mọi đề tài. Như vậy chia ra cho mỗi năm trong 40 năm ấy, tôi sẽ có con số trung bình là một tác phẩm rưỡi của những tiêu đề trên. Có người hỏi rằng trong 63 tác phẩm ấy, tác phẩm nào Thầy thích nhất? thì đây là một câu hỏi khó trả lời. Vì lẽ nếu không thích, thì tôi đã không tạo ra một đứa con tinh thần cho mình như vậy. Cho nên mỗi quyển sách, mỗi tập truyện nó có một giá trị tinh thần đích thực của nó.
17/10/2014(Xem: 11677)
978-0-9945548-5-7 , To live life fully and die serenely--surely we all share these goals, so inextricably entwined. Yet a spiritual dimension is too often lacking in the attitudes, circumstances, and rites of death in modern society. Kapleau explores the subject of death and dying on a deeply personal level, interweaving the writings of Western religions with insights from his own Zen practice, and offers practical advice for the dying and their families.
06/10/2014(Xem: 6979)
Bhante Kovida trưởng thành trên một hòn đào nhiệt đới ở Jamaica, Trung bộ châu Mỹ, và vốn là dòng dõi người Hoa. Ông đã di cư đến Canada rồi tốt nghiệp đại học về khoa học ở đó. Trong suốt hai năm 1974 và 1975, ông dùng đường bộ để đi từ châu Âu đến Ấn Độ và Népal (ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Tại đây, ông nghiên cứu về lịch sử và Văn hóa Ấn Độ, tập luyện Hatha Yoga và thiền định, tìm hiểu âm nhạc cổ điển Ấn Độ và sau cùng ông đã đến với Phật giáo. Chuyến đi này đã là biến cố có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông vì nó đã thành tựu niềm khao khát mãnh liệt thuở ấu thời về du lịch và phiêu lưu mạo hiểm, và về sự hiểu biết về tâm linh.
26/09/2014(Xem: 6922)
Đây là một quyển sách ghi lại ba ngày thuyết giảng của Đức Đạt-lai Lạt-ma tại thành phố Luân Đôn vào mùa xuân năm 1984, tức cách nay (2014) đúng ba mươi năm. Chủ đề chính của những buổi thuyết giảng này là nguyên nhân nào đã đưa đến sự hiện hữu xoay vần và trói buộc của chúng ta trong thế giới hiện tượng. Sự xoay vần hay "chu kỳ trói buộc" đó gồm có mười hai mối dây tương liên níu kéo nhau và chi phối toàn bộ sự hiện hữu của chúng ta từ lúc vừa được hình thành cho đến khi cái chết xảy đến và sẽ tiếp tục lập đi lập lại tương tự như một chiếc bánh xe xoay tròn bất tận. Thế nhưng đồng thời theo lời giáo huấn của Đức Phật thì mười hai mối dây tương liên trong chu kỳ đó cũng có thể vận hành theo chiều đảo ngược và mang lại sự giải thoát.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567