Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

2. Chu kỳ tan rã thứ hai: nhóm có liên quan với thọ uẩn

20/02/201115:46(Xem: 4046)
2. Chu kỳ tan rã thứ hai: nhóm có liên quan với thọ uẩn

PHÙ TRỢ NGƯỜI LÂM CHUNG
Đại sư Dagpo Rinpoche
Diệu Hạnh Giao Trinh Việt dịch- Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Thời Đại

PHẦN I. NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ THỜI ĐIỂM LÂM CHUNG

Tiến trình của hiện tượng chết

2. Chu kỳ tan rã thứ hai: nhóm có liên quan với thọ uẩn

Bốn thành phần cùng lúc tan rã với thọ uẩn là bình đẳng tánh trí, thủy đại, thính giác và âm thanh trong dòng tương tục của người lâm chung.

Chúng ta sẽ không nói nhiều trong chu kỳ thứ hai này vì các triệu chứng có thể ghi nhận được bởi người ngoài ít hơn chu kỳ đầu. Những ai muốn biết nhiều hơn có thể tham khảo các tác phẩm chuyên môn về sự chết.

Thọ uẩn:

Chúng ta có thể nói một câu về sự tan rã của thọ uẩn này. Những nhận xét trước kia vẫn áp dụng được ở đây: khí chống đỡ cho các cảm quan sinh lý không làm tròn chức vụ được nữa, nên các cảm quan sinh lý bị suy yếu và cùn nhụt đi. Người lâm chung không còn nhận được các cảm giác dễ chịu, khó chịu hay vô ký nữa.

Bình đẳng tánh trí:

Khí chống đỡ cho các cảm quan dẫn đến cảm thọ nội tại bắt đầu tan rã. Người lâm chung không còn cảm nhận cái gì dễ chịu, khó chịu hay vô ký, nhưng hiện thời ta chỉ nói về các cảm giác thô.

Thủy đại

Thủy đại tan rã đưa đến sự khô cạn của tất cả các chất lỏng trong thân: nước bọt, máu, nước tiểu v.v... Không còn nước bọt nên người lâm chung cảm thấy miệng lưỡi càng lúc càng khô, do đó thường than khát nước. Trên răng họ đóng lên một lớp váng đen đen. Môi trên của họ hơi nhếch lên, hai cánh mũi nhíu lại. Khi ta chứng kiến một người hấp hối, những dấu hiệu này rất rõ ràng.

Thính giác

Sức nghe không còn, người lâm chung không nghe được âm thanh nào, dầu bên ngoài hay bên trong.

Đây là một điểm cần biết và ghi nhớ, vì nếu ta muốn giúp đỡ một người lâm chung bằng những lời khuyên giải để họ có thể trụ được trong một trạng thái tâm thức hiền thiện và lợi lạc thì phải làm [điều đó] trước giai đoạn thứ hai này. Từ lúc này, người lâm chung không còn nghe được gì nữa, không một âm thanh, nghĩa là không một lời nói nào còn có thể lọt vào tai họ. Muốn trực tiếp giúp đỡ bằng âm thanh hay lời nói thì lúc này đã quá muộn.

Âm thanh tronG DÒNG tương tục

Trong suốt cuộc đời, có một âm thanh vang hưởng trong tai ta nhưng phần đông ta không nghe thấy. Muốn ý thức được âm thanh ấy, hãy bịt tai lại và sẽ nghe tiếng “u... u...” liên tục. Âm thanh ấy chấm dứt ở giai đoạn này.

Triệu chứng bên trong

Người lâm chung có ấn tượng thấy như có một làn khói mỏng. Để có một ý niệm về hình ảnh họ thấy, hãy nghĩ đến điều gì xảy ra khi ta nhóm củi trong một căn phòng. Sau một lúc, làn khói mù mịt trong căn phòng sẽ tan dần, vì khi khói tan gần hết, chỉ còn lại trên đầu ta, dưới trần nhà, một làn khói mỏng. Người lâm chung thấy một ảo tượng tương tự như thế.

3. Chu kỳ tan rã thứ ba: nhóm có liên quan với tưởng uẩn

Bốn thành phần đồng thời tan rã với tưởng uẩn là diệu quan sát trí, hỏa đại, tỵ giác và những mùi hương thuộc về dòng tương tục của người lâm chung.

Một lần nữa, tôi xác định với quý vị rằng khi ta nói về sự tan rã của thọ uẩn rồi đến tưởng uẩn là nói trên bình diện thô. Chỉ có bình diện thô của các uẩn này mới bị suy suyển đến độ biến mất, nhưng hai tâm sở này vẫn tồn tại dưới những dạng vi tế hơn.

Tưởng uẩn

Khi tưởng uẩn tan rã, người lâm chung thường mất ký ức liên quan đến người thân. Họ không nhận ra mà cũng không nhớ họ là ai.

Diệu quan sát trí

Diệu quan sát trí bình thường giúp ta nhớ biết, thí dụ như tên của cha mẹ, vợ chồng, con cái... Một khi trí này tan rã, người lâm chung không còn nhớ tên của những người thân này nữa.

Hỏa đại

Hỏa đại tan rã, hơi nóng trong thân giảm xuống, đó là một triệu chứng dễ dàng nhận ra được. Ta thường nghe người hấp hối than “Trời lạnh xuống thì phải!”.

Tỵ giác

Tỵ giác đồng thời tan rã: Triệu chứng bên ngoài là sự thay đổi trong hô hấp của người lâm chung. Họ thở ra tiếng và thở không đều. Họ hít không khí mỗi lúc một khó khăn nên hơi thở vào yếu ớt, ngắn và chậm, trong khi hơi thở ra lại dài. Chính vào lúc này ta sẽ nghe tiếng khò khè rất đặc trưng của người hấp hối.

Những mùi hương

Những mùi hương thuộc dòng tương tục của người lâm chung: Từ lúc này, người lâm chung không thể ngửi và phân biệt được các mùi hương, nhưng điều này không biểu lộ bằng bất cứ dấu hiệu nào nhận biết được từ bên ngoài.

Một tác dụng khác khi hỏa đại tan rã là người lâm chung mất khả năng ăn uống và tiêu hóa bất cứ thực phẩm nào, dầu lỏng hay đặc. Nếu ta cố đổ một chút nước vào miệng họ, vì họ không nuốt được nữa nên nước sẽ chảy ra ngoài ngay.

Triệu chứng bên trong

Người lâm chung có cảm giác thấy những điểm sáng, giống như những đốm lửa hay những con đom đóm trong bóng tối.

4. Chu kỳ tan rã thứ tư: nhóm có liên quan với hành uẩn

Bốn thành phần đồng thời tan rã với hành uẩn là thành sở tác trí, phong đại, vị giác và các vị thuộc về dòng tương tục của người lâm chung, cùng với cảm quan sinh lý là sự xúc chạm.

Hành uẩn

Triệu chứng sự tan rã của uẩn này rất dễ nhận thấy: Thân hình của người lâm chung hoàn toàn bất động từ lúc này. Họ không còn làm gì được nữa, không nhúc nhích được nữa.

Thành sở tác trí

Thành sở tác trí giúp ta nhớ những việc gì phải làm trong cuộc sống hằng ngày. Khi trí này tan rã, người lâm chung mất đi trí nhớ mình phải làm gì.

Phong đại

Phong đại cũng tan rã: Điều đang thật sự xảy ra là mười loại khí tương đối thô bắt đầu phát động lần lượt, cái này sau cái kia ngay sau lúc phôi thai, rồi luân lưu trong cả thân thể để hoàn thành các chức năng của mình, nay sẽ tụ họp hết ở một điểm giữa lồng ngực gọi là tâm điểm. Dấu hiệu bên ngoài rất rõ rệt là hơi thở bình thường chấm dứt. Nói cách khác, đó là tình trạng mà người ta gọi là “sự chết”.

Theo Phật giáo, đây chỉ là cái “chết y học” chứ chưa phải là cái chết thật sự, mà chỉ là giai đoạn thứ tư của một chu kỳ, hãy còn bốn giai đoạn theo sau nữa. Cho dầu người ta không còn thở, nhưng họ vẫn chưa chết.

Vị giác

Vị giác tan rã được biểu lộ qua một dấu hiệu dễ nhận thấy: lưỡi người lâm chung thụt ngắn và dày ra, đầu lưỡi hơi cong lên và cuống lưỡi xanh sạm.

Các vị giác thuộc dòng tương tục

Ở giai đoạn này, và chỉ ở giai đoạn này, người lâm chung mất hết khả năng cảm nhận và phân biệt các vị khác nhau.

Xúc giác

Hành uẩn tan rã cũng bao hàm xúc giác. Xúc giác không còn nữa, người lâm chung không thể phân biệt được các cảm giác êm dịu, nhám, sần sùi v.v…

Triệu chứng bên trong

Người lâm chung có cảm giác thấy một ánh nến hay ngọn đèn dầu chao động trước gió.

Cuối chu kỳ thứ tư, tất cả các thành phần thuộc dạng thô của người lâm chung đã tan rã, trên bình diện sinh lý cũng như tâm lý. Trên thực tế, mười khí năng lực thô đã tan rã nên các nhận thức, các loại tâm sở nương tựa vào chúng cũng tự động chấm dứt. Nhưng đừng quên là theo quan điểm Phật giáo thì họ vẫn chưa chết. Những gì vẫn còn trong người này là các sắc và tâm tưởng ở bình diện vi tế.

Người lâm chung còn phải trải qua bốn chu kỳ nữa, trong khi đó nhận thức của họ sẽ càng lúc càng vi tế. Những giai đoạn này chỉ được đánh dấu bằng những triệu chứng bên trong mà thôi.

5. Chu kỳ tan rã thứ năm: tâm thức màn trắng hiện

Tám mươi tâm sở tan rã vào một tâm thức gọi là “màn trắng hiện”. Người lâm chung thấy hình một ánh lửa (như lửa của một ngọn đèn bơ) bất động, rồi một màn ánh sáng trắng.

6. Chu kỳ tan rã thứ sáu: tâm thức màn đỏ tăng trưởng

Người lâm chung có cảm giác thấy một ánh sáng đỏ rất mạnh, giống như bầu trời màu cam lúc bình minh.

7. Chu kỳ tan rã thứ bảy: tâm thức màn đen cận thành tựu

Người lâm chung có cảm tưởng bị bóng tối bủa vây, họ như chìm trong hôn mê và không cảm nhận gì nữa.

8. Chu kỳ tan rã thứ tám: tâm thức ánh tịnh quang của sự chết

Các dạng vi tế của tâm và của khí sở y tan biến, nhường chỗ cho một tâm và khí rất vi tế.

Người lâm chung có cảm giác trông thấy một khoảng không vô tận, hoàn toàn thanh tịnh, không có chút màu sắc nào.

Đối với Phật giáo, chính trong giai đoạn này, giai đoạn của ánh tịnh quang, mà sự chết thực sự phát sinh.

Giản dị nhất là hãy loại trừ dần những gì không có ích cho ta. Rõ ràng là khi chết, phần đông những gì ta ưa thích lúc còn sống không còn giúp ích gì cho ta được nữa, ít ra là không giúp trực tiếp. Thế là của cải, gia tài mà ta đã khó khăn lắm mới gom góp được, nay sẽ hoàn toàn vô dụng. Chức vị, thanh danh, tên tuổi cũng thế... Người thân cũng không còn trực tiếp giúp ta được: cha mẹ, con cái, vợ chồng, y sĩ, bạn bè kể cả sư phụ hay đệ tử, không ai ngăn cản nổi cái chết, ngay cả những người mà ta đặt hết tin tưởng và trông cậy cả một đời.

Hãy suy nghĩ một chút. Hiển nhiên là khi ta nhắm mắt lìa đời, thân và tâm vi tế sẽ rời khỏi cái vỏ vật chất trước để hướng đến một nơi tái sinh khác, thì của cải và tài sản sẽ hoàn toàn vô dụng, trong ý nghĩa là ta không đem theo được gì cả. Đừng nghĩ rằng vì ta đã thành công và sung túc, ngay cả giàu có đi nữa nên ta có thể đầu thai trở lại cùng với tiền bạc của cải vật chất. Điều này không thể được. Hơn nữa, ta cũng không thể đem bất cứ ai đi theo ta, kể cả những người thân yêu nhất. Ngay cả khi ta cảm nhận được một sự ràng buộc rất mật thiết, trên phương diện tâm linh hay gì khác, với một số người nào đó, những sự ràng buộc này cũng không còn “ích lợi” nữa, trong ý nghĩa là họ không có cách nào đi theo ta một quãng đường xa hơn.

Sự thật, chết nghĩa là thân và tâm vi tế phải tiếp tục con đường của mình để hướng đến một cuộc sống mới, nhưng không thể đem theo những gì mà mình đã sở hữu suốt cả cuộc đời vừa mới chấm dứt, cũng không thể dắt theo một người nào, dầu thân thiết đến đâu đi nữa. Vả lại, ngay cả cái thân thể nhờ những nghiệp lực đặc thù nào đó mà ta đã lấy được lúc phôi thai và đã sử dụng từ đầu đến cuối cuộc đời, chính cái thân thể gần gũi và trung thành với ta dường ấy, ta cũng bắt buộc phải bỏ lại sau lưng.

Nói tóm lại, tất cả những gì mà suốt đời chúng ta đã gọi là “của tôi”, đã nói là “thuộc về tôi”, “tôi có”, thì khi chết đi đều không thuộc về ta nữa, mà sẽ lọt vào tay những chủ nhân khác, cũng một cách tạm bợ không kém.

Điều này áp dụng cho tất cả: tiền bạc, quần áo, nhà cửa, và ngay cả thân thể – thi thể – không còn là của ta, mà sẽ thuộc về những người ở lại, những người thừa kế của ta v.v... Và rồi có một ngày, họ cũng sẽ phải trải qua cảnh huống ấy.

Thế thì tất cả những của cải vật chất mà ta sở hữu trong suốt một đời, ta đều phải để lại khi chết đi, và chúng qua tay người khác. Còn đối với người thân, những người gần gũi nhất – cha mẹ, con cái v.v... – thì chết có nghĩa là phân ly với họ, vĩnh viễn. Ta sẽ không bao giờ gặp lại họ nữa. Nói thế không có nghĩa là chúng ta sẽ không gặp lại họ trong những kiếp tái sinh, nhưng chắc chắn là sẽ không như trước nữa. Phải, chúng ta có thể gặp lại họ, nhưng trong những bối cảnh hoàn toàn khác biệt, trong ấy mỗi người sẽ có một địa vị không giống chút nào với những quan hệ mà ta đã đan kết trong kiếp sống này, những quan hệ mà ta hằng tha thiết.

Để diễn tả tất cả những cảnh phân ly và nhấn mạnh tính chất vĩnh cửu của chúng, đức Phật đã dùng đến đủ loại thí dụ minh họa, nhất là trong kinh Phổ Diệu, Đức Phật đã gợi đến cảnh lá rụng mùa thu. Khi trời trở lạnh và gió thổi mạnh, những chiếc lá trong tán lá hài hòa của ngọn cây bắt đầu rơi xuống và bay tán loạn theo cơn gió lốc. Sau đó, việc cố nhặt chúng về và gắn trở lại lên những cành cây xưa kia để hồi phục tán lá cũ là một công việc vô ích, không thể làm được.

Những chiếc lá cây một khi phân tán thì vĩnh viễn không tụ họp được với nhau nữa, giống như những cuộc phân ly sau cái chết, không thể vãn hồi được. Đức Phật dạy rằng không ai có thể phục hồi những hoàn cảnh y như trước. Ngài cũng lấy thí dụ của một dòng nước chảy, nó chảy xuống phía dưới và không bao giờ, không bao giờ chảy ngược về nguồn.

Vậy thì điều gì có thể có ích lúc ta chết? Để nhận thấy được, ta phải bắt đầu bằng kiểm nghiệm xem ta có thể mang gì theo khi chết đi. Theo Phật giáo, khi ta lìa một cuộc đời để hướng đến một kiếp tái sinh khác, ta chỉ có thể vỏn vẹn mang theo những gì đã tiêm nhiễm trong tâm, hay chính xác hơn, trong dòng tâm thức. Cái gì đã lắng đọng xuống trong dòng tâm thức? Cũng theo Phật giáo, đó là những “dấu ấn”, hay cũng gọi là những “tiềm năng”. Mỗi khi ta tác động lên một trong 3 bình diện thân, khẩu, ý là ta để lại trong tâm một dấu vết, một năng lượng hay một tiềm năng. Và ta chỉ có thể tác động theo hai phương cách: một là xấu, hai là tốt. Kết quả là những tiềm năng mà chúng ta tích tập theo thời gian có thể hoặc tốt hoặc xấu, tùy theo những hành vi phát khởi ra chúng: nếu mang lại lợi ích thì là thiện, ngược lại nếu tệ hại thì là ác.

Nói thế thì điều gì có lợi cho ta khi ta chết? Chúng ta sẽ mang theo, dầu muốn dầu không, tất cả những tiềm năng mà chúng ta đã tàng trữ. Lẽ dĩ nhiên những tiềm năng xấu không thể giúp ích cho ta. Ngược lại, chúng còn gây hại cho ta. Vậy thì cái gì còn lại để ta có thể nhờ cậy vào? Chỉ có những tiềm năng tốt mà thôi. Nếu trong suốt cuộc đời vừa qua chúng ta đã thường xuyên và mạnh mẽ thực hiện những hành vi tốt, chính đáng và vị tha, thì các tiềm năng phát sinh sẽ đi theo chúng ta và rất có lợi cho chúng ta. Chỉ có những hành vi này mà thôi. Ngoài ra, không có gì khác!


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/11/2014(Xem: 8484)
Tôi có quen một cặp vợ chồng trẻ thường lui tới ngôi chùa Bảo Vương để học Pháp tụng kinh mỗi sáng chủ nhật. Minh Sinh, người chồng, gọi tôi là 'anh' trong khi Phương Thảo, người vợ, gọi tôi bằng 'chú'. Khoảng nửa năm trước mẹ của Thảo, 82 tuổi, ngả bệnh đang nằm trong bệnh viện Clayton với tình trạng đã hôn mê kiệt quệ, thoi thóp chỉ chờ ngày 'ra đi'. Thảo-Sinh đã mời Sư Ông (mà tôi gọi là sư phụ) đến tụng kinh cho bà cụ. Hôm đó là một ngày làm việc nên chỉ có sư phụ cùng với anh Bảo Minh Đạo (đã hưu trí) có thể đi được. Đã hẹn trước nên anh Minh Đạo - trên đường hướng về Clayton đã ghé ngang city đón tôi trước nơi làm việc trên đường Flinders để đi luôn cho đủ bộ, có 'duy na' có 'duyệt chúng', có 'tả phù hữu bật' để phò trợ cho sư phụ trong việc hành lễ.
11/11/2014(Xem: 5390)
Chú ngựa Bronwen tiến lại gần, quỳ xuống và hôn lên má bà bà Sheila Marsh, 77 tuổi, đang nằm trên giường bệnh, khi cả hai vĩnh biệt nhau. Vài tiếng sau cuộc gặp, bà Marsh qua đời.
10/11/2014(Xem: 17596)
Oa oa tiếng khóc trẻ thơ Lần tìm dấu vết sững sờ hoảng kinh Thùng rác chứa bé sơ sinh Cuống nhau chưa cắt đoạn tình đành sao ?
10/11/2014(Xem: 6807)
Hai anh em trai dính liền bụng nhưng họ vẫn có thể lấy vợ và sinh được 21 người con. Cuộc hôn nhân và cuộc sống của họ đã trở thành chủ đề bàn tán cho đến tận bây giờ
06/11/2014(Xem: 6843)
Brittany Maynard đã qua đời ngày hôm qua tại thành phố Portland, bang Oregon miền tây bắc nước Mỹ sau khi uống một liều thuốc tự sát trước sinh nhật thứ 30 của cô 3 tuần lễ.
01/11/2014(Xem: 7217)
Em bé đã tử vong trong quá trình rặn đẻ, người mẹ hỏi xin được ôm con lần cuối và 2 tiếng sau, bỗng có một tiếng ngáp nhẹ. Câu chuyện tưởng như vô cùng khó tin này lại hoàn toàn có thật và đã được 111,7 nghìn lượt like trên toàn thế giới. Chị Kate Ogg, bà mẹ trẻ người Úc tưởng như đã phải nói lời tạm biệt cuối cùng sau khi các bác sỹ cho biết đứa trẻ sinh non của chị đã không thể sống sót – vậy nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra.
23/10/2014(Xem: 11801)
Thức A-Lại-Da không phải là một linh hồn, giác hồn, thần hồn. Từ xưa nay trên thế giới, chưa có một tôn giáo nào phủ nhận sự hiện hữu vĩnh cửu của một linh hồn như Phật giáo, tức là Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn tồn tại trong bản thân con người. Không phải là linh hồn, là cái gì mà các loài vật và con người biết mưu sinh, đói, lạnh, giận hờn, tham lam, luyến ái, đấu tranh giành quyền sống, v.v... ? Đó là Như Lai Tạng hay Phật tánh. Phật tánh (Như Lai Tạng) có trong chúng sinh, đúng như lời Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Sở dĩ chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng (Phật tính) mà sinh ra nhiều thứ ngã là năng lực sinh tử, chứ không phải rằng Phật tính (Như Lai Tạng) có sinh, có tử. Đức Phật đã nhấn mạnh vấn đề này: “Không có tự ngã lấy gì sinh tử”. Tức là do bản ngã mà có sinh tử. Năng lượng sinh ra ngã là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng. Như Lai Tạng được thay bằng thức A-Lại-Da để có thể g
22/10/2014(Xem: 15227)
Kể từ năm 1974, khi tôi còn ở tại Nhật Bản; cho đến nay năm 2014 đang ở tại Đức, đúng ra là 40 năm. Trong 40 năm ấy tôi đã sáng tác và dịch thuật tất cả là 63 tác phẩm. Đó là chưa kể những bản dịch của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc luận tập bộ toàn cũng có trên 3.000 trang đánh máy đã được đăng trên trang nhà Viên Giác, Quảng Đức và Hoa Vô Ưu. Ngoài ra cũng có trên 100 bài viết về đủ thể tài. Từ văn hóa đến giáo dục, từ Tôn giáo đến xã hội, từ tự truyện cho đến tường thuật v.v… kể ra cũng đầy đủ mọi đề tài. Như vậy chia ra cho mỗi năm trong 40 năm ấy, tôi sẽ có con số trung bình là một tác phẩm rưỡi của những tiêu đề trên. Có người hỏi rằng trong 63 tác phẩm ấy, tác phẩm nào Thầy thích nhất? thì đây là một câu hỏi khó trả lời. Vì lẽ nếu không thích, thì tôi đã không tạo ra một đứa con tinh thần cho mình như vậy. Cho nên mỗi quyển sách, mỗi tập truyện nó có một giá trị tinh thần đích thực của nó.
17/10/2014(Xem: 11718)
978-0-9945548-5-7 , To live life fully and die serenely--surely we all share these goals, so inextricably entwined. Yet a spiritual dimension is too often lacking in the attitudes, circumstances, and rites of death in modern society. Kapleau explores the subject of death and dying on a deeply personal level, interweaving the writings of Western religions with insights from his own Zen practice, and offers practical advice for the dying and their families.
06/10/2014(Xem: 6994)
Bhante Kovida trưởng thành trên một hòn đào nhiệt đới ở Jamaica, Trung bộ châu Mỹ, và vốn là dòng dõi người Hoa. Ông đã di cư đến Canada rồi tốt nghiệp đại học về khoa học ở đó. Trong suốt hai năm 1974 và 1975, ông dùng đường bộ để đi từ châu Âu đến Ấn Độ và Népal (ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Tại đây, ông nghiên cứu về lịch sử và Văn hóa Ấn Độ, tập luyện Hatha Yoga và thiền định, tìm hiểu âm nhạc cổ điển Ấn Độ và sau cùng ông đã đến với Phật giáo. Chuyến đi này đã là biến cố có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông vì nó đã thành tựu niềm khao khát mãnh liệt thuở ấu thời về du lịch và phiêu lưu mạo hiểm, và về sự hiểu biết về tâm linh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567