Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài Giảng Thứ Tư

04/01/201115:54(Xem: 2829)
Bài Giảng Thứ Tư

 

Life, Death and After Death
S
NG, CHT và SAU KHI CHT
Lama Thubten Yeshe
Vô Huệ Nguyên chuyển ngữ - Phổ Từ Diệu Hương hiệu đính
Việt Nalanda Foundation ấn tống và phát hành tại Hoa Kỳ 2009

BÀI GIẢNG THỨ TƯ

Ngày hôm qua chúng ta đã thảo luận với nhau về những ảo ảnh xuất hiện trong lúc chết. Theo quan niệm của Phật giáo thì tất cả những lầm lạc, ảo ảnh và ô nhiễm này đều bắt nguồn từ ba nguyên nhân, từ tam độc: tham, sân và si.

Tất cả những ảo ảnh đều từ ba độc tố này mà ra. Nếu chúng ta không có ba độc tố này thì chúng ta sẽ không có bất cứ một vấn đề gì trong lúc chết. Nếu được như vậy thì chết sẽ là một sự bình an, một đại lạc. Đó là điều quan trọng. Chúng tôi diễn tả sự chết là sự nhận chìm, là sự thẩm thấu của tứ đại, khi chúng chìm đi chúng để lại những ảo ảnh. Chỉ có những người nào bị tam độc hành hạ mới có những sự mất cân bằng khi tứ đại ra đi. Tứ đại chìm đi có nghĩa là tứ đại không còn cân bằng. Trong kinh thư của Tây Tạng, danh từ đất, nước và lửa “chìm”, nhưng thực ra chúng không chìm vào nhau. Theo danh từ khoa học, chúng bị suy đồi hay bị mất cân bằng. Như vậy, khi một “đại” biến mất là một ảo ảnh xuất hiện, một “đại” khác tan biến là một ảo ảnh khác xuất hiện.

Nguyên nhân thoái hoá của những năng-lượng-không-cân-bằng trong cơ thể là tam độc. Sách y khoa của người Tây Tạng giải thích rằng lòng ham muốn sản xuất ra “lung.Có nghĩa là khí không còn cân bằng. Một khi lòng tham dấy lên là khí trong người không còn điều hoà,thamlàm cho hơi thở trở nên nặng nề khó luân chuyển.

Lòng sân hận ganh ghét sản xuất ra mật đắng. Vô minh sản xuất ra TB (ho lao). Lòng tham lam vô độ sản xuất ra xung khí, nó có ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Lòng thù hận sản xuất ra quá nhiều mật đắng có hại cho hỏa đại. Vô minh sản xuất ra nguyên tố nước. Nếu năng lượng trong người mà hoạt động mạnh quá, hoạt động quá sức, nó sẽ kích động mạnh tứ đại làm cho con người xáo trộn, kết quả là sẽ có nhiều lầm lẫn, lộn xộn xẩy ra. Sự thắng thế của một đại trong tứ đại sẽ tạo nên một sự mất thăng bằng trong cơ thể, nó có thể giết chúng ta. Khí lực (phong đại) trong cơ thể của chúng ta là nguồn sinh khí phải không? Nhưng khi nó không còn cân bằng, sinh khí sẽ trở thành tử khí. Cũng vậy, trái tim của chúng ta, sức ấm của chúng ta, cũng là những nguồn sinh lực, nếu sức ấm bị thất thoát cũng sẽ gây ra rất nhiều phiền phức.

Chúng ta cần nước, phải không? Nhưng nếu có quá nhiều nước, chúng ta cũng bị chết. Vì thế, nếu tứ đại cân bằng với nhau ở trong cơ thể của chúng ta thì chúng ta sẽ có sức khỏe tốt. Nhưng khi một trong tứ đại này mất cân bằng là toàn thể con người bị ảnh hưởng, bị xáo trộn. Đó là sự thật, sự thật về con người của chúng ta.

Rất nhiều người Tây phương đã đọc cuốn Tử Thư Tây Tạng, trong đó diễn tả rất nhiều cảnh kinh khủng, như có nhiều người đến tay cầm dao búa, nhiều người xông đến để chém giết chúng ta. Họ rất hung dữ, tàn bạo. Đó chính là lòng ham muốn của chúng ta đã sản xuất ra những hình ảnh kinh khủng này. Tôi tin vào sự kiện này, bởi vì trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta đã tích tụ biết bao nhiêu là âm lực (negativity, năng lượng âm,) biết bao nhiêu là điều không đúng sự thật và biết bao nhiêu lớp mền xấu xa nặng nề từ khi sinh ra đến bây giờ, cộng thêm với những kiếp trước nữa nữa. Phải chăng cuộc đời của chúng ta chỉ để sản xuất ra những sai lầm và u mê?

Một lần tôi được nghe kể, có những danh ca đã bán được rất nhiều đĩa nhạc trên khắp thế giới, nếu chúng ta xếp những đĩa nhạc này chồng lên nhau, có thể nó sẽ cao gấp hai lần núi Hy Mã Lạp Sơn. Giống như vậy, những sản phẩm của chúng ta về chiếc mền nặng nề cũng có thể cao gấp ba, gấp bốn lần dãy Hy Mã Lạp Sơn. Do đó, vì những dấu ấn lầm lẫn mà chúng ta đã có, đã tích tụ, đã in sâu vào tâm thức của chúng ta từ muôn vàn kiếp nên chúng ta sẽ thấy, sẽ kinh nghiệm được tất cả những thứ này trong tiến trình của sự chết.

Thí dụ trong thế giới Tây phương, mỗi khi chúng ta nghe một người mắc bệnh ung thư thì, “Bị ung thư ư --- hãy đi vào nhà thương!” Chúng ta có thể tưởng tượng được bệnh nhân sẽ như thế nào trong những ngày tháng nằm ở nhà thương không? Tôi nghĩ rằng đây chính là địa ngục. Tôi không cần phải nghe bất cứ lời diễn tả nào về cảnh địa ngục nữa. Mặc dầu chúng ta đã có rất nhiều sách nói về cảnh địa ngục, đối với tôi, đây là quá đủ để nhìn thấy những đau khổ mà người mắc bệnh ung thư này đang phải chịu. Một sự đau khổ bất thường. Một sự đau đớn hơn bất cứ một sự đau đớn nào, hơn cả một con vật. Quý vị hãy tự cảm lấy, không thể tin nổi. Đôi khi chúng ta ý thức được, nhưng rồi chúng ta lại không ý thức và tiến trình của sự chết lại lặp lại.

Thật là khủng khiếp, đây chính là kinh nghiệm cảnh địa ngục. Những kinh nghiệm này cũng giống y hệt ở thân trung ấm. Một hình ảnh hung dữ xuất hiện. Chính là tử thần. Nó muốn nuốt tươi chúng ta. Đây chính là con ma đói của chúng ta.

Năm 1978 tôi đến San Francisco để thăm một số người bị bệnh ung thư. Sau khi thăm họ, tôi không ngủ được, những hình ảnh ấy quá đau đớn cho tôi. Giống như xem cảnh địa ngục. Tôi không thể ngủ được.

Điều quan trọng là hãy cố gắng giữ sự trong sạch càng nhiều càng tốt. Mỗi một ngày nên cố gắng giữ sự trong sạch càng nhiều càng tốt. Hãy giữ chúng ta luôn luôn ở trong tình trạng trong sạch, đừng tạo thêm ô nhiễm qua thân khẩu và ý của chúng ta nữa. Như vậy sẽ không có vấn đề gì xẩy ra cả. Tâm chúng ta cân bằng thì thân thể chúng ta cũng cân bằng, như vậy chúng ta sẽ tránh được bệnh tật.

Khi sự rối loạn, sự lộn xộn xẩy đến trong lúc thiền, hãy coi chúng chỉ là những ảo ảnh không có thật. Cũng như thế, trong tiến trình của sự chết chúng ta coi những hiện tượng xẩy ra đều không có tự tính và không thật nên chúng ta sẽ bớt sợ hơn, sẽ vững tin hơn. Tất cả đều tùy thuộc vào thái độ của chúng ta đặt trên những hiện tượng xẩy ra. Nếu quá sợ hãi, chúng ta sẽ mất hết sự kiểm soát, sự tự chủ. Nếu một hiện tượng hiện ra mà chúng ta có ý chí mạnh để đối diện với chúng thì chúng ta sẽ dễ dàng kiểm soát được hoàn cảnh.

Thí dụ, một người không thể nào chịu đựng nổi một cơn bệnh trầm trọng, một sự nhiễm trùng nặng nề hay không thể nào đương đầu với sự thất bại thảm thiết. Họ không thể nào giữ cho họ được thanh thản, được an tĩnh trước những cơn khủng khoảng này. Nhưng nếu một người chết một cách tự nhiên, không vì cơn bệnh trầm trọng, không vì sự trầm uất thì họ sẽ dễ dàng giữ cho họ được an bình hơn, được sáng suốt trong giờ phút quan trọng này hơn. Chúng ta có thể nhìn được điều này. Nói rõ hơn, cấp độ tự chủ, cấp độ tỉnh thức, cấp độ sợ hãi trong tiến trình của sự chết hoàn toàn tùy thuộc vào sự nặng nhẹ của tham, sân và si.

Chúng ta có thể thắc mắc, làm sao lại tham lam trong lúc chết được. Lòng tham lam đến từ tâm. Ngay cả trong lúc tỉnh, cuộc sống của chúng ta bị dẫn dắt bởi những tư tưởng tham, chiếm hữu, tranh giành, muốn. Trong lúc chết, thân xác của chúng ta thì đóng lại nhưng tư tưởng vẫn tiếp tục đến, vẫn nuối tiếc dĩ vãng, vẫn níu kéo tương lai. Giống như trong lúc mơ. Tư tưởng tham cũng như vậy. Nó rất mạnh, vì thế ngay trong lúc thân xác bắt đầu lạnh, ngay trong lúc thân xác không còn cử động, tam độc cũng vẫn làm việc mãnh liệt ở bên trong.

Hạnh phúc thay những người chết một cách tự nhiên, một cách nhẹ nhàng mà không bị những chiếc mền nặng nề lôi kéo. Phúc đức cho họ là họ còn tỉnh thức, còn tự chủ, còn trong sạch. Do đó, khi tứ đại chìm đi, để lại những ảo ảnh dữ tợn, người chết vẫn tỉnh thức để nhận diện chúng là ảo, là giả, không có thật. Họ không có một ý niệm gì về một tự tính của thủy đại, của hỏa đại...vân vân... vì thế họ còn tự chủ. Rồi từ từ, từ từ từng “đại” chìm đi, thẩm thấu đi, rồi chúng sẽ trở nên trong sáng hơn, trong sáng hơn và hợp nhất hơn giữa vô tự tính và vô nhị-nguyên tính. Rồi chúng sẽ từ từ được dẫn đến trạng thái rỗng lặng như-như, ánh sáng trong suốt. Trạng thái này sẽ hoàn toàn giúp đỡ chứ không gây một trở ngại nào. Trạng thái này sẽ giúp người chết hoà nhập trong sự thật, trong nhất thể. Vì thế, có điều lợi và cũng có điều bất lợi.

Chúng ta không nên quá lo lắng và sợ hãi chết sẽ khó khăn, sẽ tái sinh là súc vật, beo, cọp, lừa, khỉ hay vào ba cõi thấp nhất. Tôi nói rằng chúng ta không nên sợ hãi lo lắng bởi vì chúng ta có lòng từ bi, chúng ta nên phát triển lòng từ bi. Người nào có lòng từ bi với tất cả chúng sinh tại lúc chết thì sẽ không bao giờ sợ hãi bất cứ một cõi nào cả. Với tình thương bao la thì không thể nào vào ba cõi thấp được.

Bây giờ chúng ta lại bắt đầu thiền. Lần trước chúng ta đã thanh tẩy thân xác, thanh tẩy nghiệp của thân. Bây giờ chúng ta thanh tẩy khẩu, lời nói, ngôn từ của chúng ta, thanh tẩy nghiệp của miệng lưỡi. Hãy nghĩ chủng tử đỏ AH tại luân xa cổ họng. Những tia sáng năng lượng có mầu đỏ phát ra từ chủng tử AH. Quán tưởng chủng tử đỏ AH là những lời nói thanh khiết của chư Phật và của chư Bồ tát.

Thanh tẩy có nghĩa là thanh tịnh tâm không được kiểm soát, tâm không tỉnh thức và những lời nói phát ra từ miệng có liên hệ hoạt động đến những người khác, vật khác, sự kiện khác.... Lời nói tiêu cực, lời nói xấu sẽ làm người khác đau khổ vì sự không thành thật, vì vu cáo hay vì phỉ báng. Tâm trong sáng, lời nói thành thật, lời nói được kiểm soát là phương cách thanh tẩy ngôn ngữ không trong sáng và không được kiểm soát.

Vậy hãy quán tưởng chủng tử đỏ AH. Mầu đỏ AH này giống như mầu đỏ của mặt trời lúc hoàng hôn. Hãy quán tưởng những tia sáng mầu đỏ AH tại luân xa ở cổ họng của chúng ta. Toàn thân thể chúng ta được tràn ngập, được bao bọc bởi những tia sáng năng lượng thanh tịnh này. Trong cùng lúc đó hãy tụng âm AH nhiều lần, và cũng như lần trước, hãy chỉ là trong trạng thái tỉnh thức của chính tâm mình. Hãy chỉ đang là! Hãy an trú trong đó mà không khởi lên bất cứ ý tưởng nào, không diễn dịch, không đối thoại. Hãy chỉ là như vậy, hãy chỉ là chính sự tỉnh thức.

( Lặp lại AH )

Hãy thẩm thấu kinh nghiệm vô nhị-nguyên (bất nhị,) vô tự tính của bản ngã, vô, không, zero, không gian rỗng lặng như sự thật, như thực thể, trống rỗng, lặng thinh. Nguồn năng lượng vô biên này đang thấm nhập vào chúng ta.

Một sự thẩm thấu mạnh mẽ. Kinh nghiệm này thực tế hơn những cảm giác mơ hồ từ những giác quan của chúng ta. Nếu có một tư tưởng không được kiểm soát đến quấy nhiễu, như ở trong thân trung ấm (bardo), hãy coi như không phải chỉ xẩy ra cho riêng anh mà nó xẩy ra cho tất cả mọi chúng sinh, tất cả mọi chúng sinh đều có trạng thái này. Hãy phát triển tâm bình đẳng và lòng từ bi, lòng yêu thương đến tất cả muôn loài. Hãy dành tình yêu thương cho tất cả muôn loài.

Tâm không tỉnh thức, tâm rối loạn cũng là nguồn phát ra năng lực yêu thương. Khi lòng yêu thương dâng trào, hãy hướng tất cả những năng lực tình yêu này vào tâm thức của chúng ta.

Vậy, có hai vấn đề: hãy đặt sự tỉnh thức vào tâm của chính chúng ta hay khi có sự rối loạn, sự bất an xẩy ra, hãy chú ý hướng năng lực tình yêu vào tâm thức của chính chúng ta. Hãy luân phiên thay đổi hai sự kiện này.

Kế tiếp, năng lực tình yêu của chúng ta sẽ thị hiện trong kinh mạch trung ương (shushuma) tại luân xa trái tim của chúng ta như là một vầng trăng sáng tròn đầy. Hãy quán tưởng tại trái tim, trên một vầng trăng, có những tia sáng mầu xanh (blue) của chủng tử HUNG. Đây là năng lượng trí tuệ bất nhị của chư Phật và chư Bồ Tát. Trái tim của chúng ta hoàn toàn trong sạch, an tịnh, được mở ra bởi những tia sáng của vầng trăng và chủng tử HUNG. Những tia sáng xanh vô tận đang phát ra từ HUNG. Tất cả những tư tưởng chật hẹp, nông cạn đều phải tan biến đi. Tâm bấn loạn, tâm không an tịnh đang từ từ chuyển hóa, đang từ từ tan biến. Tâm chiếm hữu, tâm bám chấp đang từ từ tan biến.

Từ chủng tử HUNG và từ vầng trăng có những tia sáng đang dần dần lan toả ra khắp thân thể chúng ta. Thân thể tràn ngập sự an lạc. Tâm nhị nguyên đang được tràn ngập bởi những làn ánh sáng xanh vô tận.

Trong lúc này, hãy tụng âm HUNG khoảng hai, ba phút. Sau hai phút này, hãy cảm nhận những làn sáng xanh, như tâm thức của chúng ta, đang bao trùm khắp vũ trụ. Sự tỉnh thức của chúng ta đang bao trùm khắp vũ trụ. Hãy cảm nhận và hãy là, mà không có một chút diễn dịch hay suy đoán nào.

( Lặp lại HUNG )

Vậy, chúng ta cần có hai kinh nghiệm: trí tuệ và phương pháp. Kinh nghiệm trí tuệ là sự tỉnh thức của thực tại tâm thức của chúng ta. Đây là con đường trí tuệ. Phương pháp là mỗi khi chúng ta rơi vào trạng thái mù mờ, mất kiểm soát: chính kinh nghiệm bấn loạn này là căn nguyên tạo ra lòng từ bi và khi sự rối loạn ra đi hãy an trú ngay vào trí tuệ. Nhắc lại hai sự việc là: khi không có vấn đề, hãy chú ý vào trí tuệ; khi bị rối loạn, hãy dùng phương pháp, phát triển lòng từ bi. Như thế, chúng ta có hai công việc phải làm mỗi ngày.

( Trở lại thiền định )

Hãy thường tụng niệm câu mật chú OM AH HUNG. Khi không tiện để tụng dài (ngân dài) câu mật chú này, hãy đọc đơn giản OM AH HUNG. Ba âm này cũng đại diện cho cả câu mật chú. Đặc biệt khi tụng âm OM, âm này sẽ đánh thức tất cả mọi hiện tượng, tất cả mọi cõi giới trong vũ trụ; sự tỉnh thức được kích thích, OM sẽ đánh thức tâm thức của chúng ta.

Tôi được nghe nói các nhà khoa học đã có kinh nghiệm về âm thanh khôi phục, bồi dưỡng bộ óc của chúng ta, mặc dầu họ chưa thấu hiểu âm thanh làm việc như thế nào. Họ đã và đang phân tích, nghiên cứu sự kiện âm thanh có ảnh hưởng đến việc khôi phục bộ óc. Họ đã khám phá ra mật chú có tác dụng làm thức dậy sự sinh hoạt của bộ óc, thay vì để chúng im lìm say ngủ. Khi chúng ta tụng “Ommmmmmmm,” chúng ta cảm nhận được toàn thể hệ thống thần kinh của chúng ta được kích thích. Vì thế, thiền định có giá trị đánh thức thay vì ngủ mê --- thức dậy trong tri giác bao la của toàn diện thực tại chứ không phải thức dậy trong u mê, ảo mộng của nhị-nguyên. Mật chú chạm vào thực thể bao la rộng lớn. Đó là lý do mật chú thường được sử dụng.

Tôi nghĩ rằng tôi nên chấm dứt sự trình bày của tôi ở đây. Điều vô cùng quan trọng là bằng mọi cách, chúng ta phải thực sự đi vào trạng thái trong sáng, không phải chỉ dùng trí thông minh, lý luận mà thôi. Với những kinh nghiệm trong thiền định, chúng ta có thể thay thế, chúng ta có thể cấy sự tỉnh thức của chúng ta vào trong tâm thức của chúng ta thay vì để nó bị rối loạn hoặc ù lì. Được như vậy là đủ tốt rồi. Cấy sự tỉnh thức vào trong tâm thức là phương pháp của Phật giáo, như là thiết lập một hỏa tiễn nguyên tử. Hướng sự tỉnh thức vào trong tâm thức của chúng ta cũng như thiết lập một giàn hỏa tiễn nguyên tử để phóng vào không gian bất nhị. Chúng ta hãy tự “thiết lập,” đừng bắt chước theo cách này hay cách kia. Chỉ đặc biệt chú ý vào sự tỉnh thức hay vào chính tâm thức của chúng ta, hệ thống hỏa tiễn nguyên tử nội tại sẽ được kích hỏa, hay sẽ được sửa chữa, để phóng vào không gian bất nhị.

Nói một cách khác, nếu chúng ta thành thật quyết tâm thiền định theo phương pháp này, tôi bảo đảm với quý vị, nếu cần tôi ký giấy bảo đảm cũng được, quý vị sẽ có kinh nghiệm về giá trị của vô nhị-nguyên. Để giải thích thêm một lần nữa: khi chúng ta chứng nghiệm được vô nhị-nguyên, được không tính, thì ngay tại lúc đó, hãy có một sự tỉnh thức mãnh liệt, một sự chú ý mãnh liệt, và hãy có một sự lãnh hội sâu xa về không tính. Đó là sự thật. Đó là thực thể. Đừng “hỏi và nêu nhiều ý kiến,” đừng thắc mắc “cái này, cái kia,” hãy xây dựng, hãy phát triển một sự mãnh liệt mạnh bạo ở bên trong. Tôi không biết phải diễn tả qua ngôn ngữ như thế nào. Nhưng bằng bất cứ một cách nào đó ở tận bên trong, sức mạnh nội tâm ở sâu thẳm bên trong sẽ thấu hiểu được, sẽ lãnh hội được sự tỉnh thức của tâm là một thực tại, là chính thực thể, sự tỉnh thức chính là thực tại.

Tại sao lại phải đặc biệt chú ý đến việc cần phải có một sức mạnh lãnh hội này? Thông thường chúng ta nghĩ rằng tất cả những ảo giác là sự thật rồi bám víu vào chúng, vồ chụp chúng. Nhưng khi chúng ta kinh nghiệm được, chứng nghiệm được vô nhị-nguyên, chúng ta liền hiểu ngay rằng đó cũng chỉ là những thói quen của chúng ta, chính những thói quen này làm chúng ta tin tưởng vào những ảo giác là sự thật, là vững vàng. Vì thế những kinh nghiệm nội tâm là một cái gì đó không có thực, đó chỉ là sự đảo ngược của tư tưởng. Quý vị đang nghe tôi đấy chứ? Đó là lý do tại sao cần phải có sức mạnh, cần phải mãnh liệt!

Tôi nghĩ rằng quá đủ rồi. Tôi đã không giải thích nhiều về thân trung ấm (bardo), vì phải dùng quá nhiều trí thông minh và rất khó giải thích về làm thế nào để một người có thể tái sinh trở lại; điều này cần rất nhiều giờ, rất nhiều chi tiết. Tuy nhiên điều quan trọng vẫn là kinh nghiệm, sự chứng nghiệm. Vì thế, chúng ta mới biết rằng chúng ta có khả năng đi vào cõi trung gian bằng kinh nghiệm thay vì bằng những lời nói “như vậy, như vậy, thân trung ấm, như vậy, như vậy, bardo như vậy, như vậy, tái sinh như vậy, như vậy...” Qua kinh nghiệm của quý vị, quý vị sẽ tự khám phá ra.

Bây giờ, quý vị có thể hỏi ba câu hỏi ngắn. Chắc chắn là tôi đã chọc tức, đã làm mất lòng một số quý vị ở đây. Vì thế, những điều gì tôi nói không có lý ở đây, những điều gì tôi đã làm cho quý vị hoang mang, nghi ngờ, xin hãy tự nhiên đặt câu hỏi.

Thính giả:Chúng ta có thể giúp người đang chết như thế nào?

Lạt ma:Tùy thuộc vào căn bản hiểu biết, tôn giáo, kiến thức... của người đang chết. Nhưng dù họ có bất cứ kiến thức nào, theo bất cứ tôn giáo nào, việc quan trọng là chúng ta cần đánh thức họ, kích thích họ tỉnh thức. Điều vô cùng quan trọng là chúng ta không nên chọc tức họ. Khi họ sẵn sàng ra đi, hãy để họ một mình. Đừng cố gắng nói gì cả, như “dùng thuốc đi” hay “hãy ký vào đây”. Một điều vô cùng trở ngại cho người chết là sự khóc lóc, than vãn, như “Trời ơi, anh sắp chết rồi.”

Thí dụ, tôi là ông bố sắp chết của anh, anh đến bên tôi, anh khóc: “Bố ơi, nếu bố chết, con sống làm sao đây?” Như vậy tôi bị quấy rầy quá làm sao tôi có thể tập trung vào tình trạng của tôi trong lúc này. Do đó, hãy để cho người ta ra đi, được không? Đừng gây xúc động quá, đừng gây tức bực quá, đừng quấy rầy quá; hãy để họ được bình an, yên tĩnh. Đó là điều vô cùng quan trọng. Càng cho họ niềm tự tin càng tốt. Hãy cố gắng khuyên họ, như : “Khi anh chết, anh sẽ hạnh phúc lắm, đừng lo lắng gì cả, tất cả mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Đây là lúc tốt nhất để ra đi. Chúc anh lên đường bình an.” Bất cứ một cái gì kích thích lòng ham muốn, lòng bám víu, lòng ganh ghét, lòng thù hận, lòng luyến tiếc đều không tốt, đều tai hại cho họ. Sự yên tĩnh, một bầu không khí an lành là tốt đẹp nhất.

Nếu họ là một tín đồ Thiên Chúa giáo, hãy nói với họ, “Anh hãy yên tâm, Chúa sẽ săn sóc anh, anh là người có diễm phúc, anh sẽ được vào thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa.” Một hành động tích cực trong lúc này là sự cần thiết, bởi vì mặc dù trong lúc này anh ta không là người sùng đạo lắm nhưng ở sâu thẳm trong tâm hồn anh ta, anh ta vẫn cần một cái gì để bám vào, cần một cơ hội để qui thuận. Vậy, khi chúng ta nói, “Jesus” hay “Chúa,” vô thức của anh ta sẽ bắt được. Đây là một việc làm tốt, tôi tin rằng chúng ta có thể giúp họ như vậy.

Có rất nhiều người Tây phương nói rằng họ chẳng có gì để làm với tôn giáo tại địa phương họ; nhưng tôi nhận thấy rằng tôn giáo tại địa phương của họ rất có ảnh hưởng đến các sinh hoạt trong đời sống thường ngày của họ và ngay cả tinh thần của họ. Trong vô thức họ là người Thiên Chúa giáo, mặc dầu họ vẫn tự xưng “Tôi không muốn theo đạo Chúa.” Vì thế, khi vào giờ phút nguy kịch, họ không có gì để bám vào, nếu chúng ta nói, “Chúa” hay “Jesus” thì có một cái gì đó bắt được họ, chạm đến họ. Dĩ nhiên, nếu họ là Phật tử, chúng ta có thể nói, “Đức Phật” hay “Buddha” !

Thính giả:Chúng ta có thể làm cái gì cho một người đang trên giường chết mà nói, “Tôi sẽ vào địa ngục”?

Lạt ma:Đúng, đó là sự thật. Thỉnh thoảng họ có thể nhìn thấy họ đang trên đường đi vào địa ngục, nên họ kêu lên, “Tôi thấy tôi đang đi vào địa ngục.” Tôi nghĩ, với những người này rất khó giúp họ bằng sự thông minh của chúng ta; chỉ còn sự hy vọng. Có thể giúp họ bằng những viên thuốc an thần để cho họ an tĩnh lại thay vì tăng thêm sự lầm lẫn, sự xáo trộn, bởi vì năng lượng của họ quá nhiều. Chỉ có cách đó mới có thể giúp họ từ từ. Ngoài ra tôi nghĩ rằng rất khó.

Thính giả:Trong Phật giáo Thiền tông, chúng ta có những công án để giúp chứng nghiệm vô tự tính. Thí dụ, có công án như “Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?” Công án đó giúp chúng ta được những gì trong sự chứng nghiệm không tính? Tiếng vỗ của một bàn tay --- nó liên hệ đến không tínhnhư thế nào?

Lạt ma:Quý vị có nhớ một lần tôi nói với quý vị, một người chấp vợ ông ta như là một thực thể tự có và một người đàn bà chấp bạn trai của bà ta như một thực thể tự có? Thí dụ này cũng giống như vậy. Cố gắng đến gần sự thật hơn là cứ bám vào cái này hay cái kia. Quý vị vẫn nghe tôi đấy chứ? Thực ra đây là một ý niệm cứng ngắc, một tư tưởng kỳ quái. Chính phủ Thụy sĩ tin đồng tiền Thụy sĩ như là một thực hữu, rồi tin tưởng rằng đồng tiền Thụy sĩ thực có này sẽ làm cho xã hội Thụy sĩ được hoàn hảo. Nó cũng giống như vậy. Tất cả đều là vọng tưởng, tất cả đều là tưởng tượng --- cái gì chúng ta giữ là thật, là tự hữu --- không chạm vào sự thật được! Chúng ta cần phải đụng vào đây (hai bàn tay chạm vào nhau) mới tạo ra âm thanh (tiếng vỗ tay) được. Như vậy chúng ta cố gắng chạm vào sự thật và hãy khám phá ra rằng những ý niệm của chúng ta, những ảo tưởng của chúng ta và những ý niệm sẵn có của chúng ta cũng đang cố gắng đi đến sự thật, đang cố gắng tạo ra âm thanh --- nhưng nó không tạo ra được âm thanh! Vì thế, cái không (zero) của ảo tưởng tự-có cũng sẽ biến mất. Đó là phương pháp để chứng nghiệm không tính.

Âm OM có liên hệ đến các hiện tượng, âm này tác động toàn thể hệ thần kinh của chúng ta. Âm OM không thể tự nó mà có được; cũng như tiếng vỗ tay không tự nó mà có được. Tiếng vỗ tay tùy thuộc vào bàn tay, tùy thuộc vào không gian, tùy thuộc vào năng lượng (sức mạnh của hai tay) và rồi hai tay đụng vào nhau như thế này. Mỗi một âm thanh là một sự liên hệ tùy thuộc, hoàn toàn tùy thuộc vào, hoàn toàn là duyên khởi. Rồi như thế này ..(hai tay vỗ vào nhau)... tạo ra âm thanh. Âm thanh tự nó không có được, nó không có tự tính. Trong Phật giáo chúng tôi thường nói về vô nhị-nguyên (bất nhị), vô tự tính. Thí dụ, khi quý vị vào trong một hang động, quý vị tạo ra một âm “Ahhhhhh,” hang động dội lại “Ahhhhhh”. Quý vị có quen với hiện tượng này không?

Âm thanh là một thí dụ rất dễ hiểu về lý duyên khởi. Hiểu được lý duyên khởi thì không còn có một ý niệm về cái tôi thường hằng vững chắc nữa. Nếu chúng ta cứ chấp âm thanh này (vỗ tay) là tự có (của một bàn tay) thì nó sẽ không còn liên hệ đến những cái khác được. Hãy cố gắng hiểu cái hợp lý theo khoa học mà Phật giáo giải thích. Nếu tiếng vỗ tay mà tự có được (từ một bàn tay) thì không cần hai bàn tay này va chạm vào nhau và những hiện tượng cũng không có liên hệ gì với nhau.

Tôi nghĩ rằng bây giờ chúng ta đã hiểu rõ các hiện tượng liên hệ phụ thuộc vào nhau như thế nào. Sự tụ họp này, dĩ nhiên, cũng không tự nó mà có được. Chúng ta gặp nhau ở đây không phải tự nhiên mà có được. Cám ơn quý vị nhiều lắm. Xin cám ơn những người đã mời tôi đến đây để diễn giải những đề tài này. Họ đã tốn rất nhiều công sức mới tổ chức được như thế. Nguyện tất cả những công việc nặng nhọc, những cố gắng phi thường của quý vị mang lại ơn ích cho muôn loài. Cám ơn quý vị nhiều lắm lắm. Nếu những điều tôi trình bày mà quý vị không được hài lòng, mà gây cho quý vị nhiều thắc mắc, thì tôi vẫn còn trên quả đất này, quý vị cứ viết cho tôi, tôi sẽ trả lời. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả những gì tôi đã trình bày, vậy cứ viết cho tôi. Tôi không biến mất ngay bây giờ đâu. Tôi cũng phải làm sạch sẽ những rác rưởi của chính tôi.

Cám ơn quý vị rất nhiều.

[Năm tháng sau, Lạt ma qua đời]

___________________________

* Ghi chú của dịch giả bản Việt ngữ:Mười một tháng sau, Ngài tái sinh. Xin xem tiểu sử của Lạt maThubten Yeshe ở trang kế.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/11/2014(Xem: 8360)
Tôi có quen một cặp vợ chồng trẻ thường lui tới ngôi chùa Bảo Vương để học Pháp tụng kinh mỗi sáng chủ nhật. Minh Sinh, người chồng, gọi tôi là 'anh' trong khi Phương Thảo, người vợ, gọi tôi bằng 'chú'. Khoảng nửa năm trước mẹ của Thảo, 82 tuổi, ngả bệnh đang nằm trong bệnh viện Clayton với tình trạng đã hôn mê kiệt quệ, thoi thóp chỉ chờ ngày 'ra đi'. Thảo-Sinh đã mời Sư Ông (mà tôi gọi là sư phụ) đến tụng kinh cho bà cụ. Hôm đó là một ngày làm việc nên chỉ có sư phụ cùng với anh Bảo Minh Đạo (đã hưu trí) có thể đi được. Đã hẹn trước nên anh Minh Đạo - trên đường hướng về Clayton đã ghé ngang city đón tôi trước nơi làm việc trên đường Flinders để đi luôn cho đủ bộ, có 'duy na' có 'duyệt chúng', có 'tả phù hữu bật' để phò trợ cho sư phụ trong việc hành lễ.
11/11/2014(Xem: 5292)
Chú ngựa Bronwen tiến lại gần, quỳ xuống và hôn lên má bà bà Sheila Marsh, 77 tuổi, đang nằm trên giường bệnh, khi cả hai vĩnh biệt nhau. Vài tiếng sau cuộc gặp, bà Marsh qua đời.
10/11/2014(Xem: 17432)
Oa oa tiếng khóc trẻ thơ Lần tìm dấu vết sững sờ hoảng kinh Thùng rác chứa bé sơ sinh Cuống nhau chưa cắt đoạn tình đành sao ?
10/11/2014(Xem: 6707)
Hai anh em trai dính liền bụng nhưng họ vẫn có thể lấy vợ và sinh được 21 người con. Cuộc hôn nhân và cuộc sống của họ đã trở thành chủ đề bàn tán cho đến tận bây giờ
06/11/2014(Xem: 6756)
Brittany Maynard đã qua đời ngày hôm qua tại thành phố Portland, bang Oregon miền tây bắc nước Mỹ sau khi uống một liều thuốc tự sát trước sinh nhật thứ 30 của cô 3 tuần lễ.
01/11/2014(Xem: 7126)
Em bé đã tử vong trong quá trình rặn đẻ, người mẹ hỏi xin được ôm con lần cuối và 2 tiếng sau, bỗng có một tiếng ngáp nhẹ. Câu chuyện tưởng như vô cùng khó tin này lại hoàn toàn có thật và đã được 111,7 nghìn lượt like trên toàn thế giới. Chị Kate Ogg, bà mẹ trẻ người Úc tưởng như đã phải nói lời tạm biệt cuối cùng sau khi các bác sỹ cho biết đứa trẻ sinh non của chị đã không thể sống sót – vậy nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra.
23/10/2014(Xem: 11701)
Thức A-Lại-Da không phải là một linh hồn, giác hồn, thần hồn. Từ xưa nay trên thế giới, chưa có một tôn giáo nào phủ nhận sự hiện hữu vĩnh cửu của một linh hồn như Phật giáo, tức là Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn tồn tại trong bản thân con người. Không phải là linh hồn, là cái gì mà các loài vật và con người biết mưu sinh, đói, lạnh, giận hờn, tham lam, luyến ái, đấu tranh giành quyền sống, v.v... ? Đó là Như Lai Tạng hay Phật tánh. Phật tánh (Như Lai Tạng) có trong chúng sinh, đúng như lời Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Sở dĩ chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng (Phật tính) mà sinh ra nhiều thứ ngã là năng lực sinh tử, chứ không phải rằng Phật tính (Như Lai Tạng) có sinh, có tử. Đức Phật đã nhấn mạnh vấn đề này: “Không có tự ngã lấy gì sinh tử”. Tức là do bản ngã mà có sinh tử. Năng lượng sinh ra ngã là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng. Như Lai Tạng được thay bằng thức A-Lại-Da để có thể g
22/10/2014(Xem: 14946)
Kể từ năm 1974, khi tôi còn ở tại Nhật Bản; cho đến nay năm 2014 đang ở tại Đức, đúng ra là 40 năm. Trong 40 năm ấy tôi đã sáng tác và dịch thuật tất cả là 63 tác phẩm. Đó là chưa kể những bản dịch của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc luận tập bộ toàn cũng có trên 3.000 trang đánh máy đã được đăng trên trang nhà Viên Giác, Quảng Đức và Hoa Vô Ưu. Ngoài ra cũng có trên 100 bài viết về đủ thể tài. Từ văn hóa đến giáo dục, từ Tôn giáo đến xã hội, từ tự truyện cho đến tường thuật v.v… kể ra cũng đầy đủ mọi đề tài. Như vậy chia ra cho mỗi năm trong 40 năm ấy, tôi sẽ có con số trung bình là một tác phẩm rưỡi của những tiêu đề trên. Có người hỏi rằng trong 63 tác phẩm ấy, tác phẩm nào Thầy thích nhất? thì đây là một câu hỏi khó trả lời. Vì lẽ nếu không thích, thì tôi đã không tạo ra một đứa con tinh thần cho mình như vậy. Cho nên mỗi quyển sách, mỗi tập truyện nó có một giá trị tinh thần đích thực của nó.
17/10/2014(Xem: 11500)
978-0-9945548-5-7 , To live life fully and die serenely--surely we all share these goals, so inextricably entwined. Yet a spiritual dimension is too often lacking in the attitudes, circumstances, and rites of death in modern society. Kapleau explores the subject of death and dying on a deeply personal level, interweaving the writings of Western religions with insights from his own Zen practice, and offers practical advice for the dying and their families.
06/10/2014(Xem: 6898)
Bhante Kovida trưởng thành trên một hòn đào nhiệt đới ở Jamaica, Trung bộ châu Mỹ, và vốn là dòng dõi người Hoa. Ông đã di cư đến Canada rồi tốt nghiệp đại học về khoa học ở đó. Trong suốt hai năm 1974 và 1975, ông dùng đường bộ để đi từ châu Âu đến Ấn Độ và Népal (ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Tại đây, ông nghiên cứu về lịch sử và Văn hóa Ấn Độ, tập luyện Hatha Yoga và thiền định, tìm hiểu âm nhạc cổ điển Ấn Độ và sau cùng ông đã đến với Phật giáo. Chuyến đi này đã là biến cố có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông vì nó đã thành tựu niềm khao khát mãnh liệt thuở ấu thời về du lịch và phiêu lưu mạo hiểm, và về sự hiểu biết về tâm linh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567