Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

HT Thánh Nghiêm nói vềc chuyện sinh tử

04/08/201009:08(Xem: 3799)
HT Thánh Nghiêm nói vềc chuyện sinh tử
htthanhnghiem-3
HOÀ THƯỢNG THÍCH THÁNH NGHIÊM
NÓI VỀ CHUYỆN SINH TỬ

Minh Bửu biên tập

Vào ngày 23 tháng 02 năm 2008, Hòa Thượng Thánh Nghiêm có cuộc nói chuyện với đức cha thiên chúa giáo Đơn Quốc Tỉ về quan điểm sinh tử. Hôm nay, Hòa thượng đã xã báo an tường, thu thần thị tịch, để tỏ lòng tưởng niệm đến cố giác linh Ngài, Biên tập viên Minh Bửu đã biên dịch lại cuộc đối thọai này.

- Nếu sau này có người nhắc đến “Sư phụ Thánh Nghiêm”, Ngài hi vọng họ sẽ nhớ gì về Ngài?

Hòa thượng: Hi vọng người khác nhớ gì về tôi? Trước giờ tôi chưa hề nghĩ đến vấn đề này. Trong thực tế những gì chúng ta nhớ về các nhân vật lịch sử đều có hạn, huống hồ tôi liệu có thể trở thành nhân vật lịch sử hay không. Dẫu có người đề cao tôi, nói tôi là nhân vật mang tính lịch sử, sau này chắc chắn sẽ lưu danh trong lịch sử. Nhưng, cho dù lịch sử có ghi lại tên tôi, cũng chưa hẳn sẽ ghi lại trong ký ức của những người đời sau, cách nghĩ, cách nhìn của người đời sau về tôi có thể có nhiều quan điểm khác nhau. Hiện tại cách nhìn của mọi người về tôi cũng khác nhau, một trăm người có một trăm cách nhìn. Phải đến khi đóng nắp quan tài mới có thể luận định, bây giờ nói những điều này quá dư thừa. Đã mất đi rồi còn quan tâm người đời sau có nhớ mình không, hoàn toàn không có ý nghĩa gì, cũng không có gì quan trọng.

thichthanhnghiem-35

Hòa Thượng khai bút đầu năm 2008 " Hòa kính bình an"

- Phải sống thế nào trong cuộc sống hiện tại?

Hòa thượng : Thời gian có quá khứ cũng có tương lai, nhưng quá khứ thì đã qua đi, tương lai thì vẫn chưa đến, đây không phải là chuyện hư không sao? Nhưng nếu chỉ nói về hiện tại, mà bỏ qua quá khứ và tương lai thì cũng là một sai sót. Với chúng ta mà nói, khoảng thời gian từ khi cha mẹ sinh ra đời cho đến bây giờ chính là “quá khứ” của chúng ta; với vũ trụ mà nói, sự bắt đầu của nó, các nhà khoa học cho rằng hình thành do vụ nổ lớn trong vũ trụ, nhưng trước vụ nổ lớn đó là gì, chúng ta vẫn chưa biết được, chỉ có thể hiểu theo những luận điểm của các nhà khoa học, nhưng đó đều là quá khứ. Những chuyện trong quá khứ, bây giờ đã không thể nắm bắt được.

Về những gì mà bản thân tôi trải qua, như nơi tôi sinh ra, bây giờ là đáy sông Trường Giang, chìm trong nước, nhìn không thấy nữa rồi. Khi tôi 70 tuổi, tôi từng trở về Đại Lục thăm lại miền quê thơ ấu của tôi, những công trình, sông hồ, cây cối, địa hình nơi đó bây giờ đều đã thay đổi, cũng chẳng còn ai quen biết. Nếu có hình ảnh, quá khứ chỉ có thể lưu lại trong hình ảnh, hoặc chỉ có thể lưu lại trong ký ức mà thôi. Còn tương lai thì vẫn chưa đến, chỉ có thể tưởng tượng, nhưng tưởng tượng thì chưa hẳn đã là sự thực. Ví như trước khi chúng ta đến thăm một vùng đất xa lạ, có thể chúng ta đã bắt đầu tưởng tượng về người, vật và kiến trúc ở nơi đó, sau khi đến nơi mới phát hiện tưởng tượng và sự thực có một khoảng cách. Vì vậy, quá khứ, tương lại là hư ảo, sống trong hiện tại, quan trọng nhất là nắm lấy hiện tại.

Hiện lại là gì? Như tôi bây giờ là một Hòa thượng, làm một ngày Hòa thượng thì phải gõ chuông một ngày, trách nhiệm của tôi là gì, chức vụ của tôi là gì, công việc của tôi là gì, nơi tôi ở thế nào, ở thời điểm nào hiện tại đều không thể tách khỏi những điều này. Tôi phải nắm vững cuộc sống hiện tại của mình, phải chịu trách nhiệm và làm tốt nghĩa vụ của mình, cũng chính là nắm vững hiện tại từ lập trường của mình. Nếu như thế, tôi vô cùng tích cực, không hư không cũng không thất vọng. Người ta sở dĩ cảm thấy thất vọng là vì mơ mộng về tương lai, kết quả tương lai với những gì mơ tưởng đều không giống nhau, cho nên thất vọng. Sống trong hiện tại chính là thực hiện ước mơ tương lai. Sống trong hiện tại là vui vẻ nhất, nếu bỏ qua hiện tại, luôn nghĩ về quá khứ và mơ về tương lai, vậy hiện tại là hư không, đó là một việc hết sức bi ai.

- Thế còn về bệnh tật và tín ngưỡng Ngài nghĩ thế nào?

Hòa Thượng :Nhìn từ quan điểm nhân quả đơn thuần, bị bệnh là một việc rất tiêu cực, giống như trước đây tôi đã làm việc xấu, bây giờ phải chịu quả báo là bị bệnh. Tuy cách giải thích này không thể nói là sai, nhưng cũng không hẳn là hoàn toàn chính xác. Như đức Phật Thích Ca Mâu Ni đến thế giới này độ chúng sinh, nhưng trong cuộc đời của Ngài đã trải qua nhiều khổ nan; hay như Huyền Trang Đại Sư đến Ấn Độ thỉnh kinh, suốt chặng đường đi trải qua hơn 80 nạn kiếp, chẳng lẽ đó là nghiệp báo nhân quả sao? Hay là vì trước đây họ làm việc xấu cho nên kiếp này phải chịu quả báo khổ nạn? Ngoài ra, chúng ta còn thấy nhiều cao tăng trong lịch sử, họ đều bước ra từ trong gian khổ. Có vị Cổ Đức từng nói: “Không trải qua mùa đông lạnh giá, sao có thể thấy được hoa mai nở”.

Đối với người tu hành Phật giáo, bất luận là mong muốn trở thành Phật hay một vị cao tăng, đều phải trải qua sự thử thách của khổ nạn, rất nhiều ví dụ đều như vậy. Pháp sư Thích Ấn Thuận viên tịch cách đây không lâu (năm 2005). Hơn 10 tuổi đã mắc bệnh nặng, ông sống nhờ vào uống thuốc và chích thuốc. Nhưng cũng chính vì bệnh, sức khỏe yếu kém, mà chuyên tâm nghiên cứu kinh Phật, cuối cùng cũng có một thành tựu lớn trong Phật học. Cuộc đời của tôi tuy không thể sánh với họ, nhưng vì sống trong thời đại chiến tranh liên miên, cho nên cả cuộc đời tôi đều là khổ nạn. Khi mới ra đời tôi đã không được khỏe mạnh, đến 5, 6 tuổi vẫn chưa biết nói, lúc 8, 9 tuổi mới bắt đầu đi học. Tuy tôi chưa học qua bậc trung học và đại học, nhưng trong hoàn cảnh đó, tôi hoàn toàn dựa vào nổ lực của bản thân, cuối cùng nhận được học vị tiến sĩ ở Nhật Bản. Trong khoảng thời gian này, sức khỏe của tôi vẫn không tốt.

Bất luận là đến Nhật Bản hay Mỹ, tôi đều nổ lực trong hoàn cảnh không ai giúp đỡ. Khi đó giới Phật giáo không có khái niệm bồi dưỡng nhân tài, vì Phật giáo khi ấy không có người, cũng không có khả năng. Nhìn thấy Phật giáo suy yếu như vậy, tôi chỉ biết nổ lực hết sức mình, đồng thời tôi cũng phát nguyện, bản thân tôi không thể học đại học, nhưng sau này tôi sẽ mở trường đại học, để mọi người xuất gia đều có học vị.

Về quá trình này mà nói, chẳng lẽ là vì trước đây tôi đã làm việc xấu, cho nên bây giờ phải chịu trừng phạt hay sao? Không phải thế. Trái lại tôi vô cùng cảm ơn cuộc đời cho tôi có cảnh ngộ như thế, cảm ơn Phật Bồ Tát đã an bày cho tôi một cuộc đời như thế, để tôi có cơ hội cống hiến sức mình.

Lúc hơn ba mươi tuổi tôi đã viết rất nhiều sách, mấy mươi năm gần đây, cho dù có bận rộn, mệt mỏi thế nào, mỗi năm cũng cố gắng viết mấy quyển sách, cho nên đến bây giờ tôi đã viết hơn 100 quyển sách. Là vì điều gì? Là nhân quả chăng? Kỳ thực là Phật Bồ Tát đã ban cho tôi sứ mệnh ấy, cũng là tâm nguyện từ nhỏ của bản thân tôi. Từ nhỏ tôi đã có một tâm nguyện, tôi nghĩ “Phật pháp tốt như thế, nhưng người hiểu sai về Phật pháp rất nhiều! người hiểu đúng về Phật pháp rất ít” Vì vậy, tôi muốn dốc hết sức mình truyền bá, chia sẻ với mọi người trên thế giới về những điều hay của Phật pháp, về trí năng của Phật pháp. Nhưng những gì tôi biết, những gì tôi có thể thì rất có hạn, cho nên tôi phải phong phú tri thức bản thân mình để có thể đủ năng lực truyền bá và chia sẻ Phật pháp. Giống như vừa rồi cha Đơn Quốc Tỉ đã nói, đốt một ngọn đèn cầy nhỏ, có thể chiếu sáng cả không gian, để ta bước đi dễ dàng, cũng để những người khác trong không gian được hưởng lây, được chiếu sáng.

Vì vậy, tâm nguyện của tôi chính là chia sẻ với mọi người trên thế giới về điều hay, về trí năng của Phật pháp. Những năm gần đây tôi đề xướng dùng “tâm linh bảo vệ môi trường”để “nâng cao chất lượng con người, xây dựng một môi trường sống trong sạch, mong rằng những người khổ nạn trên đời đều có thể chia sẻ được sức mạnh của lòng từ bi và trí tuệ của Phật pháp; có người mang ánh sáng của lòng từ bi và trí tuệ Phật pháp chiếu gọi khắp nơi, có người được chiếu gọi bởi ánh sáng ấy. Không phải tôi hi vọng biến mọi người trên thế giới này thành đệ tử Phật môn, đây cũng là việc không thể, nhưng phải quan tâm đến thế giới này, chia sẻ lợi ích Phật pháp, giúp đỡ người đời giảm bớt phiền não, cho dù là giảm bớt một phần nhỏ nhoi cũng đã tốt rồi.

Vì vậy trong cuộc đời này, dẫu có nhiều bệnh, dẫu có gian khổ, nhưng tôi vẫn tràn đầy lòng cảm ơn. Mọi người biết thận tôi có vấn đề, bây giờ phải định kỳ rửa thận; tôi cũng từng đến gần biên giới của cõi chết, đã đi vài lần trước quỷ môn quan, nhưng bây giờ tôi vẫn có thể ở đây, là vì tâm nguyện của tôi vẫn chưa hoàn thành.

Tâm nguyện cuối cùng của tôi là xây dựng trường đại học Pháp Cổ. Khi bệnh tình của tôi nguy kịch, tôi cầu nguyện trước Phật Bồ Tát: “Nếu nhiệm vụ của tôi đã hết, không có việc gì cần tôi làm, thì cứ để tôi đi, nếu Phật Bồ Tát còn nhiệm vụ mong muốn tôi hoàn thành thì hãy để tôi sống tiếp”. Kết quả là tôi sống tiếp, mà nguyện vọng của tôi chính là xây dựng trường đại học Pháp Cổ.

Với tôi bây giờ mà nói, chết hay sống không còn quan trọng nữa, nhưng sống là nhiệm vụ, là sứ mạng mà Phật Bồ Tát đã giao cho tôi, tôi phải sống hết mình, sống có tinh thần, có sức sống. Vừa rồi Cha đạo có nói, sau khi chết đi thì sẽ sống trong vòng yêu thương của Chúa; nhưng sau khi tôi mất đi, thì có chung một sứ mệnh, một thân xác, một vùng đất, một thế giới với chư Phật tam thế, thì tôi còn gì để cầu mong chứ?

Tôi bây giờ rất nhỏ nhoi, thời gian cũng có hạn, người tôi có thể giúp cũng không nhiều; nhưng sau khi tôi mất đi, không chỉ ở Đài Loan, không chỉ ở quả đất hay vũ trụ hữu hạn này, mà là trong thế giới vô hạn. Như thế, nơi nào cần tôi, tôi sẽ đến đó! Lúc nào cần tôi thực hiện sứ mệnh, tôi sẽ đi! Trong thời không vô hạn, có rất nhiều chúng sinh cần sự giúp đỡ và độ hóa, chỉ cần có duyên với nơi nào đó, tôi sẽ đến đó!Đó chính là nhân quả quan của tôi. Nhân quả lớn nhỏ và tùy vào nơi tái sinh. Cũng không phải là tôi đã làm nhiều việc tốt cho trái đất này, cho nên mong muốn trở lại trái đất này để hưởng phước, đấy không phải là quan niệm Phập pháp chân chính, vì phạm vi của tâm thánh nhân thời không như thế, như thế là quá nhỏ hẹp. Người tu, tâm nguyện không có biên giới, và công năng của lòng từ bi và trí tuệ không có giới hạn, như thế mới quảng độ tất cả chúng sinh.

Ngài cảm thấy cuộc đời của Ngài đến bây giờ, có điều gì hối tiếc không? Hoặc là cảm thấy việc gì vẫn chưa làm, cần phải nổ lực hoàn thành? Ngoài ra, đa số những người nổi tiếng trên thế giới, bao gồm cả những người thuộc lĩnh vực tôn giáo, đều là sống vinh chết bi ai, Ngài đã làm chủ của rất nhiều tang lễ, đã chứng kiến biết bao chuyện bi quan ly hợp, xin hỏi Ngài sẽ sắp xếp thế nào về “Chặng đường cuối cùng” của mình? Mong muốn những người quan tâm đến Ngài, yêu thương Ngài thực hiện những gì?

Hòa Thượng: Có người từng hỏi tôi, trong cuộc đời này, có điều gì hối tiếc không? Nếu phải chết ngay lập tức, còn điều gì muốn giao phó không? Với tôi mà nói, tôi đã từng phạm rất nhiều lỗi, nhưng đó không phải là nuối tiếc, mà vì không biết cho nên phạm lỗi. Nhưng tôi sẽ không tái phạm những lỗi mà tôi đã phạm phải, cũng chính là không có tiếc nuối. Về việc còn điều gì muốn làm mà chưa làm được? Quả thực là có rất nhiều việc muốn làm nhưng vẫn chưa làm được.

Mấy năm nay, chúng ta đều đưa ra những hoạt động xã hội, ví dụ như, chúng ta tiến hành cải cách trong việc cúng kiến, đốt tiền vàng bạc, đốt pháo trong dân gian, trước đây dân gian Đài Loan thường thấy tình trạng tập tục cúng kiến từ thôn này ăn đến thôn khác, từ thị trấn này ăn đến thị trấn khác, bây giờ đã giảm dần rồi.

Ngoài ra, mấy năm trước phát động phong trào “Trái tim ngũ tứ”, chính là chủ trương phong trào cuộc sống mới bắt đầu từ “trái tim”. Giống như xã hội bây giờ khi tiếp xúc vấn đề hay hiện tượng nào đó, chúng ta cần phải tập đối diện, tiếp nhận, xử lý, và bỏ lại… có rất nhiều người áp dụng cách sống như thế, và nó trở thành một phương thức sống cần thiết thường ngày.

Năm ngoái, chúng tôi đưa ra phong trào “Tâm lục luân”. Bởi vì “Ngũ Luân” trong cổ đại Trung Quốc đã không còn thích hợp với xã hội bây giờ, có một số quan niệm trở nên cổ hữu, con người thời đại mới, nhất là người trẻ, không dễ dàng chấp nhận, cho nên chúng ta thông qua các phương tiện truyền thông truyền hình, báo chí, tạp chí đẩy mạnh phong trào “Tâm lục luân”.

Năm nay, chúng ta đưa ra phong trào “Hảo nguyện tại nhân gian”, kêu gọi mọi người ước điều tốt lành, làm việc tốt, đổi vận tốt. Nhưng những phong trào xã hội này không thể chỉ phát động trong một khoảng thời gian là đủ, mà cần phải tiếp tục phổ biến và mở rộng.

Thế gian này có hạn, nhưng trong trái tim tôi, ước nguyện của tôi rất nhiều, chỉ cần có ích cho xã hội là thứ mà xã hội cần thiết, tôi đều đồng ý làm. Nếu bản thân tôi không làm được, tôi kêu gọi mọi người cùng làm; nếu kiếp này tôi vẫn chưa làm hết, mong rằng kiếp sau lại được tiếp tục phát động, kêu gọi mọi người cùng thực hiện. Cho nên, cuộc đời này tôi không có gì hối tiếc, nhưng tâm nguyện của tôi thì rất nhiều. Cho dù sau khi chết, tôi mong được bên cạnh Phật Bồ Tát, sau đó, nếu Phật Bồ Tát muốn tôi về đâu, tôi sẽ về đó, hoặc là sẽ đi theo tâm nguyện của tôi.

Sau khi tôi mất, người ta bình luận thế nào về tôi, là việc của người ta, chẳng liên quan gì đến tôi. Khi nãy Đức cha có nói, sau khi chết không mong có người dâng hoa, không mong có người ca tụng công đức, cũng không mong phô trương, truy điệu. Trước đây, khi cha La Quang qua đời, tôi đến tưởng niệm, nhìn thấy quan tài của cha đặt trong đại sảnh, xung quanh chẳng có gì cả, đây là một gương mẫu rất tốt.

Nhưng trong giới Phật giáo, trước đây có một số tang lễ tương đối phô trương, linh đường to lớn, bố trí rất đẹp, đồng thời còn cử hành truy điệu, truyền cúng. Truyền cúng chính là tập hợp nhiều pháp sư trưởng lão lại cúng bái 10 món chay, sau đó từng món từng món truyền đi, có thể nói là ai vinh sau khi mất đi.

Nhưng sau khi tôi mất, tôi không cần những điều đó. Tôi đã sớm lập di chúc, mà còn được luật sư và tòa án công chứng; bản thân tôi không có tài sản, tác phẩm của tôi thuộc về giáo đoàn; di thể của tôi bỏ vào trong quan tài gỗ mỏnglà được, sau khi hỏa thiêu, không lập bài vị, không lập bia, không xây mộ, cũng không cần xây tháp.

Trên Pháp Cổ Sơn có khu vườn bảo vệ môi trường núi Lập Kim huyện Đài Bắc, là công viên thực táng, là nơi Pháp Cổ Sơn quyên đất cho chính quyền huyện Đài Bắc, sau đó chính quyền huyện Đài Bắc giao lại cho Pháp Cổ Sơn quản lý, bảo vệ.

Cái gọi là thực táng chính là lấy tro cốt phân làm nhiều phần rải chôn ở những nơi khác nhau trong công viên, như thế để người đời sau không thể nhận ra được nơi nào là nơi đã chôn cất người thân của mình. Bất luận người theo tôn giáo nào, dân tộc nào, chỉ cần nguyện mang tro cốt thực táng ở công viên, chúng tôi đều chấp nhận, trong quá trình thực táng, cũng không có bất kỳ nghi thức tôn giáo nào. Người đến công viên không được dâng hoa, đốt tiền vàng bạc, thắp hương hay đốt đèn cầy, chỉ có tưởng niệm.

Kỳ thực con người sau khi mất đi, đã biến mất trên thế giới này, hoặc tạm thời có người nhớ đến, nhưng 10 năm, 20 năm sau, mọi người sẽ quên hết. Những tang lễ ngày trước không văn minh, cũng không kinh tế, rất lãng phí, cho dù anh có một ngôi mộ rất lớn, nhưng qua 50 năm, 100 năm sau rồi cũng bị lãng quên, như Tần Thủy Hoàng trong lịch sử Trung Quốc, lăng mộ của ông giờ chỉ là một nơi tham quan, chứ không phải đi tưởng nhớ ông ấy. Hiện tại, khu công viên bảo vệ môi trường trên Pháp Cổ Sơn đã thực táng rất nhiều người, 10 năm sau, có thể lên đến mấy ngàn người. Nếu có người đến tưởng niệm, thì sẽ tưởng niệm cùng lúc mấy ngàn người. Sau này, tro cốt của tôi cũng sẽ thực táng ở đó, cho nên sau khi tôi mất đi,tro cốt có thể trở thành phân bón, vì xung quanh công viên đã trồng nhiều trúc xanh, sau này còn có thể có những măng tre mới, tro cốt sẽ trở thành phân bón. Vì vậy, cách nghĩ của tôi với Đức cha rất giống nhau, mong rằng cách làm của chúng tôi có thể trở thành một tập tục mới, cũng mong rằng sau này có nhiều danh nhân, cao tăng đại đức cũng làm như thế, để xã hội của chúng ta thực sự đi vào thời đại văn minh.

Minh Bửu (biên dịch)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/11/2014(Xem: 8483)
Tôi có quen một cặp vợ chồng trẻ thường lui tới ngôi chùa Bảo Vương để học Pháp tụng kinh mỗi sáng chủ nhật. Minh Sinh, người chồng, gọi tôi là 'anh' trong khi Phương Thảo, người vợ, gọi tôi bằng 'chú'. Khoảng nửa năm trước mẹ của Thảo, 82 tuổi, ngả bệnh đang nằm trong bệnh viện Clayton với tình trạng đã hôn mê kiệt quệ, thoi thóp chỉ chờ ngày 'ra đi'. Thảo-Sinh đã mời Sư Ông (mà tôi gọi là sư phụ) đến tụng kinh cho bà cụ. Hôm đó là một ngày làm việc nên chỉ có sư phụ cùng với anh Bảo Minh Đạo (đã hưu trí) có thể đi được. Đã hẹn trước nên anh Minh Đạo - trên đường hướng về Clayton đã ghé ngang city đón tôi trước nơi làm việc trên đường Flinders để đi luôn cho đủ bộ, có 'duy na' có 'duyệt chúng', có 'tả phù hữu bật' để phò trợ cho sư phụ trong việc hành lễ.
11/11/2014(Xem: 5389)
Chú ngựa Bronwen tiến lại gần, quỳ xuống và hôn lên má bà bà Sheila Marsh, 77 tuổi, đang nằm trên giường bệnh, khi cả hai vĩnh biệt nhau. Vài tiếng sau cuộc gặp, bà Marsh qua đời.
10/11/2014(Xem: 17596)
Oa oa tiếng khóc trẻ thơ Lần tìm dấu vết sững sờ hoảng kinh Thùng rác chứa bé sơ sinh Cuống nhau chưa cắt đoạn tình đành sao ?
10/11/2014(Xem: 6807)
Hai anh em trai dính liền bụng nhưng họ vẫn có thể lấy vợ và sinh được 21 người con. Cuộc hôn nhân và cuộc sống của họ đã trở thành chủ đề bàn tán cho đến tận bây giờ
06/11/2014(Xem: 6843)
Brittany Maynard đã qua đời ngày hôm qua tại thành phố Portland, bang Oregon miền tây bắc nước Mỹ sau khi uống một liều thuốc tự sát trước sinh nhật thứ 30 của cô 3 tuần lễ.
01/11/2014(Xem: 7217)
Em bé đã tử vong trong quá trình rặn đẻ, người mẹ hỏi xin được ôm con lần cuối và 2 tiếng sau, bỗng có một tiếng ngáp nhẹ. Câu chuyện tưởng như vô cùng khó tin này lại hoàn toàn có thật và đã được 111,7 nghìn lượt like trên toàn thế giới. Chị Kate Ogg, bà mẹ trẻ người Úc tưởng như đã phải nói lời tạm biệt cuối cùng sau khi các bác sỹ cho biết đứa trẻ sinh non của chị đã không thể sống sót – vậy nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra.
23/10/2014(Xem: 11801)
Thức A-Lại-Da không phải là một linh hồn, giác hồn, thần hồn. Từ xưa nay trên thế giới, chưa có một tôn giáo nào phủ nhận sự hiện hữu vĩnh cửu của một linh hồn như Phật giáo, tức là Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn tồn tại trong bản thân con người. Không phải là linh hồn, là cái gì mà các loài vật và con người biết mưu sinh, đói, lạnh, giận hờn, tham lam, luyến ái, đấu tranh giành quyền sống, v.v... ? Đó là Như Lai Tạng hay Phật tánh. Phật tánh (Như Lai Tạng) có trong chúng sinh, đúng như lời Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Sở dĩ chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng (Phật tính) mà sinh ra nhiều thứ ngã là năng lực sinh tử, chứ không phải rằng Phật tính (Như Lai Tạng) có sinh, có tử. Đức Phật đã nhấn mạnh vấn đề này: “Không có tự ngã lấy gì sinh tử”. Tức là do bản ngã mà có sinh tử. Năng lượng sinh ra ngã là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng. Như Lai Tạng được thay bằng thức A-Lại-Da để có thể g
22/10/2014(Xem: 15226)
Kể từ năm 1974, khi tôi còn ở tại Nhật Bản; cho đến nay năm 2014 đang ở tại Đức, đúng ra là 40 năm. Trong 40 năm ấy tôi đã sáng tác và dịch thuật tất cả là 63 tác phẩm. Đó là chưa kể những bản dịch của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc luận tập bộ toàn cũng có trên 3.000 trang đánh máy đã được đăng trên trang nhà Viên Giác, Quảng Đức và Hoa Vô Ưu. Ngoài ra cũng có trên 100 bài viết về đủ thể tài. Từ văn hóa đến giáo dục, từ Tôn giáo đến xã hội, từ tự truyện cho đến tường thuật v.v… kể ra cũng đầy đủ mọi đề tài. Như vậy chia ra cho mỗi năm trong 40 năm ấy, tôi sẽ có con số trung bình là một tác phẩm rưỡi của những tiêu đề trên. Có người hỏi rằng trong 63 tác phẩm ấy, tác phẩm nào Thầy thích nhất? thì đây là một câu hỏi khó trả lời. Vì lẽ nếu không thích, thì tôi đã không tạo ra một đứa con tinh thần cho mình như vậy. Cho nên mỗi quyển sách, mỗi tập truyện nó có một giá trị tinh thần đích thực của nó.
17/10/2014(Xem: 11718)
978-0-9945548-5-7 , To live life fully and die serenely--surely we all share these goals, so inextricably entwined. Yet a spiritual dimension is too often lacking in the attitudes, circumstances, and rites of death in modern society. Kapleau explores the subject of death and dying on a deeply personal level, interweaving the writings of Western religions with insights from his own Zen practice, and offers practical advice for the dying and their families.
06/10/2014(Xem: 6993)
Bhante Kovida trưởng thành trên một hòn đào nhiệt đới ở Jamaica, Trung bộ châu Mỹ, và vốn là dòng dõi người Hoa. Ông đã di cư đến Canada rồi tốt nghiệp đại học về khoa học ở đó. Trong suốt hai năm 1974 và 1975, ông dùng đường bộ để đi từ châu Âu đến Ấn Độ và Népal (ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Tại đây, ông nghiên cứu về lịch sử và Văn hóa Ấn Độ, tập luyện Hatha Yoga và thiền định, tìm hiểu âm nhạc cổ điển Ấn Độ và sau cùng ông đã đến với Phật giáo. Chuyến đi này đã là biến cố có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông vì nó đã thành tựu niềm khao khát mãnh liệt thuở ấu thời về du lịch và phiêu lưu mạo hiểm, và về sự hiểu biết về tâm linh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567