Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

SỰ GIẢI THOÁT NHỜ VIỆC LẮNG NGHE TRONG BARDO

21/12/201017:10(Xem: 3685)
SỰ GIẢI THOÁT NHỜ VIỆC LẮNG NGHE TRONG BARDO

SỰ GIẢI THOÁT NHỜ VIỆC LẮNG NGHE TRONG BARDO
Của Đức Liên Hoa Sanh (Guru Rinpoche)
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên

Những vần kệ về Bardo từ Sáu Phương pháp Kỳ diệu để đạt được Giác ngộ mà Không cần Tu tập


Ở đây ta sẽ giải thích ý nghĩa sâu xa về sự giải thoát nhờ việc lắng nghe cho người đã tới giờ chết. Trong ba loại bardo, loại thứ nhất là thời gian bardo của sự chết.

Đứa con may mắn của gia đình cao quý, hãy nhất tâm lắng nghe với sự chánh niệm và không xao lãng. Mọi sự xuất hiện trong thế giới này đều là sự lọc lừa như-mộng của Ma quân. Mọi sự vô thường là đối tượng của cái chết. Người cao quý, hãy từ bỏ nỗi đau khổ!

Những kinh nghiệm về sắc trắng, sắc đỏ và sắc đen thảy đều là sự phô diễn thần diệu của tâm thức con. Những sắc tướng này không là gì khác hơn bản thân con. Chớ sợ hãi hay bị chấn động.

Giờ đây dường như con đang mất ý thức. Những sắc tướng bên ngoài tương tự như bầu trời lúc rạng đông. Kinh nghiệm bên trong giống như một ngọn đèn bơ trong một chiếc bình. Hãy an trụ nhất tâm trong sự quang minh của vô-niệm. Sự chói ngời này của sự chết tự nó là tâm Phật. Hãy an trụ tự nhiên mà không tạo tác hay bóp méo bất kỳ điều gì. Người cao quý, theo cách này con sẽ được giải thoát trong Pháp Thân.

Hãy ban lời chỉ dạy này trong một thái độ vui vẻ và trong sáng. Những người thượng căn nhất sẽ được giải thoát nhờ phương pháp này. Bây giờ tới bardo thứ hai: bardo Pháp tánh.

Đứa con may mắn của gia đình cao quý, hãy lắng nghe với sự chánh niệm nhất tâm, không xao lãng. Lúc đầu, con đã không nhận ra giác tánh. Trong bảy ngày kế tiếp, mọi kinh nghiệm sẽ xuất hiện như những cầu vồng, ánh sáng, tia sáng, những quả cầu và như những thân tướng của các Bổn Tôn. Tất cả đều là sự phô diễn thần diệu của phương tiện và trí tuệ của năm vị Phật (Ngũ Trí Như Lai). Đừng sợ hãi hay kinh khiếp bởi những màu sắc và ánh sáng chói lọi. Hãy quả quyết rằng chúng là những biểu lộ của riêng con.

Cùng với những ánh sáng này, những ánh sáng có màu sắc mờ đục cũng sẽ xuất hiện và hấp dẫn tâm thức con. Đừng bám luyến vào chúng. Chúng là sự tự-phô diễn của năm độc, những con đường của luân hồi sinh tử. Sự biểu lộ của con sẽ xuất hiện như những con đường thanh tịnh và bất tịnh, vì thế đừng quên con đường đúng đắn được chọn lựa.

Từ trung tâm tim của chư Phật nam nữ của năm Bộ Phật, những tia sáng phóng tới đôi mắt con. Đây là con đường vĩ đại, trực tiếp của Đức Vajrasattva (Kim Cương Tát Đoả). Hãy an trụ yên ổn trong sự tỉnh giác và hãy cầu nguyện: “Xin đoái tưởng tới con với lòng bi mẫn!” Hãy khẩn cầu với sự khát khao mãnh liệt. Không lấy hay bỏ, không tống khứ hay ôm giữ bất kỳ điều gì, hãy duy trì trạng thái trong đó những sắc tướng của các Bổn Tôn bất khả phân với bản thân con. Vào lúc đó, khi một Bổn Tôn tan hòa vào vị khác, con sẽ được giải thoát vào Báo Thân.

Hãy lắng nghe hỡi đứa con may mắn! Nếu giờ đây con không được giải thoát, hãy thấu hiểu rằng thời gian không biến đổi mặc dù những hiện tượng thay đổi. Khắp mọi nơi ở bốn phương chính và bốn phương phụ, phương trên và phương dưới, ở giữa một đống lửa cháy ầm ĩ và những màu sắc cầu vồng là Herula Vĩ đại và Vinh quang. Tập hội những Bổn Tôn và những thị giả khủng khiếp của ngài trút xuống những vũ khí sắc nhọn, âm thanh HUNG, PHAT và tiếng cười. Cảnh tượng hừng hực vô cùng phong phú này làm cho một tỉ hệ thống thế giới run sợ.

Không sợ hãi hay kinh khiếp, hãy nhận thức mọi sự là sự phô diễn của giác tánh của con. Hãy kiên định trong giác tánh này và nghỉ ngơi trong khi hoà trộn bất khả phân với trạng thái tự nhiên. Khi đã đi vào con đường, con sẽ được giải thoát.

Theo cách này, những người có căn cơ trung bình được giải thoát. Thứ ba là trong thời gian bardo trở thành, hãy nói với người chết:

Hãy lắng nghe, đứa con của gia đình may mắn. Hãy duy trì sự chánh niệm và không bị xao lãng. Giờ đây thân thể con gồm có prana (năng lực vi tế) và tâm thức. Chung quanh nó những hình tướng của bardo trở thành xuất hiện. Khi biết rằng con đã chết, con mong mỏi mình vẫn còn sống. Con bị những thuộc hạ hung dữ của Thần Chết tóm bắt. Những âm thanh khủng khiếp và những hẻm núi dốc xuất hiện cùng với nhiều biểu hiện rõ ràng và mơ hồ. Tất cả những điều này là sự hiển lộ của tâm con, chúng hoàn toàn trống rỗng như bầu trời. Không gian không thể bị không gian hãm hại. Do đó, hãy phát triển sự xác tín tuyệt đối.

Vật hiến cúng được thiêu đốt và cúng dường này là một bữa tiệc vô tận, thực phẩm của sự giải thoát không bị vẩn đục nhờ sự lắng nghe. Hãy thụ hưởng nó và không bám luyến vào việc được sống mà với sự khao khát hãy hướng về Bổn Tôn và Đạo sư của con.

Ở phương tây là Cõi Cực Lạc nơi Đức Phật A Di Đà an trụ. Bất kỳ ai nhớ tới danh hiệu của Ngài sẽ được tái sinh ở đó. Con cũng thế, hãy cầu nguyện khi nhớ tới danh hiệu của Ngài. Hãy phát triển lòng sùng mộ, nghĩ tưởng rằng: “Xin chăm sóc con, Đức Lokeshvara (Quán Thế Âm) và Guru Rinpoche (Đức Liên Hoa Sanh)!” Không nghi ngờ, hãy tiến lên với một cú nhảy kim cương thật tự nhiên. Trong cõi Phật đó, trong chỗ lõm của một nụ sen, con sẽ được sinh ra một cách nhanh chóng và kỳ diệu. Như thế, đứa con cao quý, với sự hỉ lạc hãy phát khởi lòng sùng mộ.

Những người có căn cơ thấp được giải thoát như thế. Nếu không được như vậy thì bây giờ tới phương cách giải thoát một khi người ta kinh qua sự tái sinh.

Hãy lắng nghe, đứa con của gia đình cao quý. Bởi con đã không đóng lại cánh cửa đi vào tử cung, khi con nhìn thấy một khúc gỗ, một không gian trống trải, một nơi tăm tối, một khu rừng hay một cung điện, hãy từ bỏ sự tham muốn và bám luyến.

Hãy chuẩn bị tâm thức con để sinh ra trên trái đất và đặc biệt là ở Tây Tạng.1 trước sự hiện diện của vị Thầy của con.

Hãy quán tưởng những cha mẹ tương lai của con, thuộc một gia đình mộ đạo, là Guru Rinpoche và vị phối ngẫu của Ngài. Hãy từ bỏ sự tham và sân, và với niềm tin hãy đi vào trạng thái an tĩnh. Khi đã trở thành một bình chứa đối với Giáo Pháp sâu xa, con sẽ nhanh chóng đạt được trí tuệ.

Nhờ những giáo huấn thứ lớp này, cho dù căn cơ có thấp kém tới đâu chăng nữa, chắc chắn là người ta sẽ được giải thoát trong bảy đời tái sinh.

Hãy kết thúc thời khoá bằng sự hồi hướng và những lời ước nguyện và an trụ trong trạng thái tự nhiên của bản tánh thuần tịnh của mọi hiện tượng.

Một giáo huấn hết sức sâu xa như thế này không đòi hỏi sự tu tập, nhưng giải thoát nhờ việc lắng nghe./.


Giáo lý này được rút ra từ một bản văn trong Quyển 1 của Chokling Tersar, được gọi là Sheldam Nyingjang, Cẩm nang Trọng yếu của những Giáo huấn Truyền Khẩu.

Xuất bản lại năm 2002 bởi Nhà Xuất bản Lightwatcher
P.O. Box 2643, Friday Harbor, WA 98250
lightman@lightwatcher.com

Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên



1. Đây là 100 năm trước. Hiện tại ước nguyện hẳn được nhắm tới những nơi nào có thể tìm thấy giáo lý Kim Cương thừa.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/11/2014(Xem: 8491)
Tôi có quen một cặp vợ chồng trẻ thường lui tới ngôi chùa Bảo Vương để học Pháp tụng kinh mỗi sáng chủ nhật. Minh Sinh, người chồng, gọi tôi là 'anh' trong khi Phương Thảo, người vợ, gọi tôi bằng 'chú'. Khoảng nửa năm trước mẹ của Thảo, 82 tuổi, ngả bệnh đang nằm trong bệnh viện Clayton với tình trạng đã hôn mê kiệt quệ, thoi thóp chỉ chờ ngày 'ra đi'. Thảo-Sinh đã mời Sư Ông (mà tôi gọi là sư phụ) đến tụng kinh cho bà cụ. Hôm đó là một ngày làm việc nên chỉ có sư phụ cùng với anh Bảo Minh Đạo (đã hưu trí) có thể đi được. Đã hẹn trước nên anh Minh Đạo - trên đường hướng về Clayton đã ghé ngang city đón tôi trước nơi làm việc trên đường Flinders để đi luôn cho đủ bộ, có 'duy na' có 'duyệt chúng', có 'tả phù hữu bật' để phò trợ cho sư phụ trong việc hành lễ.
11/11/2014(Xem: 5398)
Chú ngựa Bronwen tiến lại gần, quỳ xuống và hôn lên má bà bà Sheila Marsh, 77 tuổi, đang nằm trên giường bệnh, khi cả hai vĩnh biệt nhau. Vài tiếng sau cuộc gặp, bà Marsh qua đời.
10/11/2014(Xem: 17607)
Oa oa tiếng khóc trẻ thơ Lần tìm dấu vết sững sờ hoảng kinh Thùng rác chứa bé sơ sinh Cuống nhau chưa cắt đoạn tình đành sao ?
10/11/2014(Xem: 6811)
Hai anh em trai dính liền bụng nhưng họ vẫn có thể lấy vợ và sinh được 21 người con. Cuộc hôn nhân và cuộc sống của họ đã trở thành chủ đề bàn tán cho đến tận bây giờ
06/11/2014(Xem: 6847)
Brittany Maynard đã qua đời ngày hôm qua tại thành phố Portland, bang Oregon miền tây bắc nước Mỹ sau khi uống một liều thuốc tự sát trước sinh nhật thứ 30 của cô 3 tuần lễ.
01/11/2014(Xem: 7222)
Em bé đã tử vong trong quá trình rặn đẻ, người mẹ hỏi xin được ôm con lần cuối và 2 tiếng sau, bỗng có một tiếng ngáp nhẹ. Câu chuyện tưởng như vô cùng khó tin này lại hoàn toàn có thật và đã được 111,7 nghìn lượt like trên toàn thế giới. Chị Kate Ogg, bà mẹ trẻ người Úc tưởng như đã phải nói lời tạm biệt cuối cùng sau khi các bác sỹ cho biết đứa trẻ sinh non của chị đã không thể sống sót – vậy nhưng điều kỳ diệu đã xảy ra.
23/10/2014(Xem: 11820)
Thức A-Lại-Da không phải là một linh hồn, giác hồn, thần hồn. Từ xưa nay trên thế giới, chưa có một tôn giáo nào phủ nhận sự hiện hữu vĩnh cửu của một linh hồn như Phật giáo, tức là Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn tồn tại trong bản thân con người. Không phải là linh hồn, là cái gì mà các loài vật và con người biết mưu sinh, đói, lạnh, giận hờn, tham lam, luyến ái, đấu tranh giành quyền sống, v.v... ? Đó là Như Lai Tạng hay Phật tánh. Phật tánh (Như Lai Tạng) có trong chúng sinh, đúng như lời Phật nói: “Tất cả chúng sinh đều có Phật tính”. Sở dĩ chúng sinh bị trôi lăn trong sinh tử luân hồi là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng (Phật tính) mà sinh ra nhiều thứ ngã là năng lực sinh tử, chứ không phải rằng Phật tính (Như Lai Tạng) có sinh, có tử. Đức Phật đã nhấn mạnh vấn đề này: “Không có tự ngã lấy gì sinh tử”. Tức là do bản ngã mà có sinh tử. Năng lượng sinh ra ngã là do vô minh, phiền não bao phủ Như Lai Tạng. Như Lai Tạng được thay bằng thức A-Lại-Da để có thể g
22/10/2014(Xem: 15258)
Kể từ năm 1974, khi tôi còn ở tại Nhật Bản; cho đến nay năm 2014 đang ở tại Đức, đúng ra là 40 năm. Trong 40 năm ấy tôi đã sáng tác và dịch thuật tất cả là 63 tác phẩm. Đó là chưa kể những bản dịch của Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh, quyển thứ 32 thuộc luận tập bộ toàn cũng có trên 3.000 trang đánh máy đã được đăng trên trang nhà Viên Giác, Quảng Đức và Hoa Vô Ưu. Ngoài ra cũng có trên 100 bài viết về đủ thể tài. Từ văn hóa đến giáo dục, từ Tôn giáo đến xã hội, từ tự truyện cho đến tường thuật v.v… kể ra cũng đầy đủ mọi đề tài. Như vậy chia ra cho mỗi năm trong 40 năm ấy, tôi sẽ có con số trung bình là một tác phẩm rưỡi của những tiêu đề trên. Có người hỏi rằng trong 63 tác phẩm ấy, tác phẩm nào Thầy thích nhất? thì đây là một câu hỏi khó trả lời. Vì lẽ nếu không thích, thì tôi đã không tạo ra một đứa con tinh thần cho mình như vậy. Cho nên mỗi quyển sách, mỗi tập truyện nó có một giá trị tinh thần đích thực của nó.
17/10/2014(Xem: 11733)
978-0-9945548-5-7 , To live life fully and die serenely--surely we all share these goals, so inextricably entwined. Yet a spiritual dimension is too often lacking in the attitudes, circumstances, and rites of death in modern society. Kapleau explores the subject of death and dying on a deeply personal level, interweaving the writings of Western religions with insights from his own Zen practice, and offers practical advice for the dying and their families.
06/10/2014(Xem: 7002)
Bhante Kovida trưởng thành trên một hòn đào nhiệt đới ở Jamaica, Trung bộ châu Mỹ, và vốn là dòng dõi người Hoa. Ông đã di cư đến Canada rồi tốt nghiệp đại học về khoa học ở đó. Trong suốt hai năm 1974 và 1975, ông dùng đường bộ để đi từ châu Âu đến Ấn Độ và Népal (ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ, Iran, Afghanistan, và Pakistan). Tại đây, ông nghiên cứu về lịch sử và Văn hóa Ấn Độ, tập luyện Hatha Yoga và thiền định, tìm hiểu âm nhạc cổ điển Ấn Độ và sau cùng ông đã đến với Phật giáo. Chuyến đi này đã là biến cố có ý nghĩa nhất trong cuộc đời ông vì nó đã thành tựu niềm khao khát mãnh liệt thuở ấu thời về du lịch và phiêu lưu mạo hiểm, và về sự hiểu biết về tâm linh.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567